Khoảng 3 giờ sáng 19.1, khi khu trục
hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) và tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) được lệnh
hành quân tiến về đảo Quang Hòa (Duncan), như đã tiên đoán việc xảy ra rất quan
trọng nên Hạm trưởng San ra lệnh cho tôi kéo lên đỉnh cột cờ lá chiến kỳ (còn
gọi là phương kỳ), lá chiến kỳ số 1 ngang 20 cm và dài 15 m; đồng thời ông cũng
ra lệnh cho các vị trí chiến đấu sẵn sàng cho trận hải chiến chủ yếu như sau:
- Giày không được cột dây.
- Ống quần túm vào vớ.
- Mặc áo phao loại trùm vào cổ có bình nén
khí + đèn pin để khi nhảy xuống biển thì giựt dây bình nén, khí sẽ tự bơm phao
phồng lên, nâng đầu và ngực nổi lên mặt nước, đèn pin tự động sáng.
Hạm phó Nguyễn Thành Sắc và thượng sĩ nhất Trần
Dục (cựu Quản đội trưởng) và thượng sĩ nhất giám lộ Ry (Quản đội trưởng) được
lệnh đi kiểm tra từng vị trí chiến đấu. Mờ sáng 5 giờ, tôi và trung sĩ nhất
giám lộ Khiết đứng sau đài chỉ huy nơi sân cờ, nhìn lên đỉnh cột cờ ngoài lá
quốc kỳ kèm theo lá chiến kỳ bay phập phồng trong gió sớm, phía sau là tuần
dương hạm HQ-5 đang rẽ sóng, cả hai tàu đã chạy hết tốc lực để đến điểm đổ bộ
theo lệnh hành quân.
Lúc 6 giờ sáng, HQ-4 đã tiến sát đảo Quang Hòa,
khi gần đến đảo, bằng ống nhòm và mắt thường từ đài chỉ huy đã phát hiện doanh
trại và cột cờ có cờ Trung Quốc. Trước đây hơn một tháng, HQ-4 trong một chuyến
khảo sát quần đảo Hoàng Sa, đội khảo sát do đại úy Diên và trung sĩ nhất giám
lộ Khiết đã lên đảo nhưng không phát hiện gì ngoài chai lọ trôi tấp lên bờ cát.
Trên đài chỉ huy, Hạm trưởng San đến bàn hải đồ chấm tọa độ để đổ bộ và lệnh cho
chúng tôi xác định vị trí chính xác nhất báo cáo cho Hạm trưởng.
Trung úy Roa xác định bằng ra đa, tôi và trung
sĩ nhất giám lộ Khiết xác định chấm tọa độ bằng các đối vật trên biển, khi đến
điểm đổ quân, chúng tôi báo cáo ngay cho Hạm trưởng. Ông ra lệnh ngưng máy và
lùi máy hết tốc độ để giảm đà tiến của tàu, đồng thời ông khẩn cấp ra lệnh cho
lực lượng Biệt hải rời tàu xuống 3 xuồng cao su có gắn máy 40 mã lực.
Khoảng 10 phút sau, lực lượng Biệt hải đã đổ lên
đảo (mặt đông nam) rất nhanh, bên trong đảo rất im lìm, trên tàu mọi cặp mắt,
mọi ống nhòm đều nhìn trên đảo, bất cứ chuyển động nào trên đảo đều được báo
cáo cho Hạm trưởng. Cờ được cắm lên bờ cát và hốc đá, lực lượng tiếp tục tiến
vào bên trong đảo.
Giữa lúc đó, lực lượng người nhái vẫn còn ngoài
xa, chưa vào được vì HQ-5 không vào sát bờ. Ở rìa tây nam đảo, gió mùa đông bắc
thổi khá mạnh, các xuồng cao su bị sóng gió giạt không vào bờ được. HQ-5 phải
thả xuồng cứu hộ xuống để kéo các xuồng cao su vào bờ, lúc đó đã gần 8 giờ.
Từ đài chỉ huy, bộ phận quan sát đã phát hiện
một lực lượng gồm 4 tàu địch (chủ yếu là tàu đánh cá và tàu công trình) tiến
nhanh và đã đổ bộ một đội quân đông đảo lên phía bắc đảo. Hàng trăm quân đổ bộ
vào đảo rất nhanh vì xuôi gió, những báo cáo bất lợi dồn dập gởi về đài chỉ huy
HQ-4. Lực lượng Biệt hải khẩn trương báo cáo đang đối mặt với lực lượng địch.
Cả hai phía dùng tay xua đuổi nhau, một số đông đối phương đang núp sau các
tảng đá, chĩa mũi súng vào đội hình Biệt hải.
Trên mặt biển đã thấy HQ-16 và HQ-10 đang tiến
về rìa tây nam đảo, theo sau là hai tàu chiến Trung Quốc đang tiến vào đội hình
ta. Phía bắc, tàu đánh cá ngụy trang đang tiếp tục đổ người lên đảo. Tình hình
hết sức căng thẳng khi từ đông bắc đảo Quang Hòa, hai tàu địch rẽ sóng tiến
thẳng về phía khu trục hạm Trần Khánh Dư. Lúc bấy giờ lực lượng người nhái đã
vào được rìa tây nam đảo, nhưng từ đó muốn vào bên trong đảo phải lội qua đầm
nước cạn hoặc phải đi vòng qua hướng đông nam nơi lực lượng Biệt hải đã đổ lên.
Từ đài chỉ huy HQ-4, tôi thấy lực lượng người
nhái phải lội qua đầm nước; có nơi nước đến tận thắt lưng nên lực lượng người
nhái tiến vào rất chậm chạp mà phía bắc đảo địch đã đổ quân lên đông như kiến.
Lúc bấy giờ, thời tiết cuối năm rất lạnh, chúng tôi bị bí tiểu mà không dám rời
vị trí chiến đấu. Đến khi chịu hết xiết thì mới chạy xuống phòng vệ sinh; mà đi
cũng rất khó khăn vì trên người lỉnh kỉnh nào áo phao, áo lạnh, áo giáp, nón
sắt, giày không cột dây. Đi ngang qua các phòng trông rất vắng lặng, mọi người
phải giải quyết thật nhanh rồi ba chân bốn cẳng chạy lên đài chỉ huy.
Tình hình trên đảo lúc bấy giờ đang rất căng
thẳng, lực lượng Biệt hải đang đối mặt với địch, chỉ huy Biệt hải xin lệnh nổ
súng. Hạm trưởng San (chỉ huy trưởng phân đội 1 gồm HQ-4 và HQ-5) hỏi lực lượng
Biệt hải nếu nổ súng thì sao? Lực lượng Biệt hải báo cáo: “Nếu nổ súng thì cả
trung đội Biệt hải sẽ bị tiêu diệt vì lực lượng ta quá ít mà địch thì rất đông
lại núp sau các công sự phòng thủ và các phiến đá; còn ta thì đang ở ngoài
trời, sử dụng súng cá nhân không giải quyết được chiến trường, chỉ có thể sử
dụng lựu đạn để công phá các ổ kháng cự. Sau một hồi cân nhắc, Hạm trưởng San
quyết định rút toàn bộ lực lượng Biệt hải và lực lượng người nhái về tàu.
Khi Biệt hải đã về HQ-4 an toàn thì lực lượng
người nhái vẫn còn lội bì bõm trong đầm nước cạn. Đến 8 giờ 30 sáng, một loạt
đạn thượng liên và cối 82 bắn vào đội hình người nhái, một sĩ quan tử thương và
ba bị thương. Tình hình hết sức căng thẳng. Ban chỉ huy mặt trận không thể ra
lệnh nổ súng vì lực lượng người nhái đang ở vị trí cực kỳ nguy hiểm.
Chúng tôi chứng kiến đội hình người nhái
thấy hết sức đau lòng. Lệnh rút nhanh ra rìa đảo nhưng họ không thể
bỏ lại các đồng đội, một số chiến sĩ quay lại tìm xác đồng đội
kéo lên và dìu ra rìa đảo.
Đến 9 giờ 15, lực lượng người nhái mới ra
được HQ-4 (vì HQ-4 đang ở rất gần đảo) và một số về được HQ-5.
Giờ đây, sát bên HQ-4 là hai tàu chiến
Trung Quốc mang số hiệu 274 và 271 sơn màu xám đen trang bị đại bác 85
ly và nhiều súng 37 ly. Các khẩu súng đang chĩa thẳng vào HQ-4. Các
tín hiệu bằng đèn hiệu được liên tục chuyển đến HQ-4. Chúng tôi được
lệnh từ Hạm trưởng San nhận những tín hiệu từ tàu Trung Quốc.
Sau khi nhận xong bằng tiếng Anh, chúng tôi
trình cho Hạm trưởng San, Hạm trưởng San đưa sang trung úy Minh dịch.
Trung úy Minh rất giỏi Anh ngữ, vừa thực tập trên Hạm đội 7 về, xuống
tàu với chức danh trưởng ngành hải pháo. Trung úy Minh xem xong trình
với Hạm trưởng San, nói là địch khiêu khích ta bằng câu: "Chúng
ta hãy làm những gì mà người quân nhân chúng ta phải làm". Hạm
trưởng San nghe xong ông tức tối, đỏ mặt quát tháo ầm ĩ và đưa nắm
đấm sang hướng tàu địch tỏ vẻ căm giận. Ông ra lệnh cho chúng tôi
không nhận tín hiệu nữa và thốt lên: "Bọn bố láo".
Hai tàu của địch lúc nào cũng bám sát
khu trục hạm Trần Khánh Dư vì đó là mục tiêu tiêu diệt hàng đầu của
địch. Về mặt lý thuyết, HQ-4 là chiến hạm rất tối tân, ngoài vũ khí
thông thường chiến hạm còn được trang bị:
- Một giàn ra đa không thám có khả
năng phát hiện phi cơ địch từ khoảng cách 100 km.
- Hai giàn torpedo (phóng ngư lôi) chống
tàu mặt nước.
- Một hệ thống sonar dò tàu ngầm.
- Một giàn depth charge sau lái thả
những thùng thuốc nổ để tiêu diệt tàu ngầm.
- Hai dàn hedgehog (phóng thủy lựu
đạn) chống tàu ngầm.
Tuy nhiên, thực tế thì các hệ thống này đều
không có đạn. Tàu có ưu điểm chạy rất nhanh (vận tốc có thể lên đến
42 km/giờ). Các khẩu đại bác 76 ly 2 đều bắn bằng hệ thống viễn
khiển, một xạ thủ chỉ cần nhìn vào màn hình chỉnh mục tiêu và bóp
cò. Hệ thống tiếp đạn dây chuyền bằng điện rất nhanh và liên tục. Các
khẩu BKP (bích kích pháo 81 ly bắn trực xạ); các đại bác 20 ly đạn
dây để chống phi cơ.
Trong thời gian này, những thông tin liên
lạc giữa Hoàng Sa và Đà Nẵng dù rất gần (170 hải lý) nhưng không thể
thực hiện được. Tần số liên lạc bị phá rối, trên hệ thống máy bộ
đàm chỉ nghe toàn tiếng Hoa. Trong khi đó, Tư lệnh Hải quân đang ở Đà
Nẵng, tất cả lệnh từ Đà Nẵng đều phải chuyển vào Sài Gòn, từ Sài
Gòn mới chuyển ra Hoàng Sa.
Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên hải - Phó đề
đốc Hải quân Hồ Văn Kỳ Thoại - quyết định giao quyền cho Đại tá
Ngạc. Khoảng 9 giờ 50, tàu địch 271 tiến đến rất gần HQ-4. Thình lình
một loạt đạn đại liên trên nóc đài chỉ huy nổ vang. Toàn bộ đài chỉ huy
không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Hạm trưởng San từ đài chỉ huy chạy ra
hành lang bên trái hét to: "Im ngay, ngưng ngay, bọn chúng nổ súng
thì chết hết!".
Có lẽ địch nghĩ loạt đạn này chỉ nhằm cảnh
báo không cho tàu đến gần (vì không có tiếng đại bác nên tàu địch
vọt ra xa mà không bắn trả). Sau đó Đại tá Ngạc ra lệnh chuyển bốn
tàu theo đội hình hàng dọc (Formation-one) theo tín hiệu cờ của khối
Minh ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) để giữ bí mật. Đến khi tín hiệu cờ
chuyển sang đội hình hàng ngang (Formation-two) thì tất cả các khẩu
đại bác đều hướng lên đảo. Khi nhận lệnh bắn thì tất cả khai hỏa
lên đảo dọn đường lập đầu cầu để Biệt hải và người nhái đổ bộ lên
đảo chiếm lại đảo.
Hạm trưởng San tức tối liệng tổ hợp nghe
xuống sàn đài chỉ huy chiến hạm. Ông phân bua với thuộc cấp trên đài
chỉ huy: "Mấy thằng kia nó để cho mình yên à".
Trước khi chuẩn bị nổ súng, Đại tá Ngạc
hỏi ý kiến từng hạm trưởng. Đến khi hỏi ý kiến Hạm trưởng San, ông
San gằn từng tiếng trong bộ đàm: "Báo cáo, tôi là quân nhân, tôi
chấp hành quân lệnh nhưng hiện nước cờ đã bị lộ, không còn yếu tố
bất ngờ. Muốn đổ bộ lên chiếm đảo trước mắt phải tiêu diệt lực
lượng trên biển rồi sau đó mới tính đến việc đổ quân. Hiện nay tàu
địch gấp đôi tàu ta, quân địch đã đổ bộ từ sáng tới giờ đầy trên
đảo, ta chỉ có hai trung đội thì làm sao thành công được”.
Ông nói tiếp: "Tôi là quân nhân, tôi
chấp nhận hy sinh vì Tổ quốc nhưng chuyện này hết sức vô lý".
Rồi ông cúp máy và ra lệnh: "Tất cả các khẩu súng nhắm thẳng
vào tàu địch". Ông quyết định không chấp hành lệnh bắn vào bờ.
Thời gian từ 10 giờ 10 đến 10 giờ 20, các
chiến hạm vận chuyển chiến thuật theo lệnh bằng hiệu kỳ phát ra từ
soái hạm HQ-5. Phía Việt Nam Cộng Hòa không ra lệnh bằng bộ đàm để giữ
bí mật mà dùng tín hiệu bằng cờ của khối NATO. Lúc bấy giờ các
ống nhòm trên đài chỉ huy đều tập trung cho ngành giám lộ. Tôi và
thượng sĩ nhất giám lộ Ry cùng trung sĩ nhất giám lộ Khiết mỗi người một
ống nhòm nhìn chăm chú vào soái hạm HQ-5.
Khi thấy tại cột cờ HQ-5 hai lá cờ
Formation-one (đội hình số 1 - hàng dọc) được kéo lên chúng tôi báo
cáo cho Hạm trưởng San để ông điều động tàu đúng đội hình, đồng thời
chúng tôi cũng lệnh cho nhân viên giám lộ kéo lên hai lá cờ
formation-one để xác nhận đã nhận được tín hiệu và đang thi hành
mệnh lệnh. Đến khoảng 10 giờ 18, từ HQ-5 hai lá cờ Formation-one được
kéo xuống, lập tức chúng tôi cũng kéo xuống.
Ngay khi ấy, từ bên soái hạm, hai lá cờ
Formation-two được kéo lên. Chúng tôi báo cho Hạm trưởng và kéo lên hai
lá cờ Formation-two để xác nhận đã nhận được tín hiệu và đang thi
hành mệnh lệnh. Lập tức các chiến hạm chuyển sang đội hình số 2 (đội
hình hàng ngang). (Còn tiếp)
Lữ Công Bảy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét