Tiếp nối sau tuyên bố đanh thép "Không đánh đổi chủ
quyền lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông" của Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng, nhắc đến 16 chữ vàng với Trung Quốc, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc
gia Trần Duy Hải khẳng định "Vàng rất quý nhưng chủ quyền quốc gia còn quý
hơn!"
Phó
Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia Trần Duy Hải (người đứng)
|
Nhằm cung cấp cho
công luận trong và ngoài nước những cơ sở pháp lý, bằng chứng lịch sử để khẳng
định chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, cũng
như những diễn biến mới trên thực địa, chiều 23/5, tại Hà Nội, Bộ Ngoại giao Việt
Nam đã tổ chức họp báo quốc tế về tình hình Biển Đông.
Đây là lần họp
báo quốc tế lần thứ 3 của Bộ Ngoại giao từ sau khi Trung Quốc hạ đặt trái phép
giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.
Tại cuộc họp báo,
ông Trần Duy Hải – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia đã tuyên bố bác bỏ
những luận điệu, thông tin sai trái mà phía Trung Quốc đưa ra gần đây liên quan
đến chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa.
Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng
lịch sử để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Từ rất nhiều thế
kỷ nay, ít nhất là từ thế kỷ 17, các nhà nước phong kiến Việt Nam đã xác lập và
thực thi chủ quyền ở hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, một cách hòa bình,
liên tục, phù hợp với luật pháp quốc tế và không bị nước nào phản đối.
Trong thời kỳ
Pháp thuộc, từ nửa cuối thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20, chính phủ Pháp đã nhân
danh, thay mặt nhà nước Việt Nam tiếp tục quản lý hai quần đảo trên, đồng thời
phản đối các yêu sách của nước khác đối với hai quần đảo này. Tại Hội nghị
Sanfrancisco tháng 9/1951 – hội nghị giải quyết các vấn đề về lãnh thổ sau
Chiến tranh thế giới II, phái đoàn Liên Xô đã đề nghị trao trả Hoàng Sa, Trường
Sa cho Trung Quốc nhưng 46/51 quốc gia đã bỏ phiếu phản đối.
Cũng tại hội nghị
này, Trưởng phái đoàn Việt Nam, ông Trần Văn Hữu - Thủ tướng chính phủ Bảo Đại,
đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này mà không gặp sự
phản đối của bất cứ ai.
Hiệp định Geneve
năm 1954 về khuôn khổ hòa bình ở Đông Dương đã khẳng định các bên tham gia phải
tôn trọng độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Theo hiệp định này, sau
khi Pháp rút khỏi Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa đã tiếp quản sự quản lý cũng như
thực thi chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Việt Nam Cộng hòa đã
ra nhiều tuyên bố cũng như có nhiều hành vi thực hiện chủ quyền hai quần đảo
này. Trung Quốc là một nước tham gia Hiệp định Geneve 1954 nên họ biết rất rõ
việc này và phải có trách nhiệm tôn trọng thực tế, cũng như các văn kiện của
Hội nghị quốc tế về Đông Dương 1954.
Năm 1974, Trung
Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam. Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đều đã lên tiếng phản đối hành động đó
của Trung Quốc và tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng
Sa.
Ông Hải nhấn
mạnh, về góc độ luật pháp quốc tế, việc chiếm đóng lãnh thổ của một quốc gia có
chủ quyền bằng vũ lực là hành vi phi pháp, vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc
và luật pháp quốc tế, không thể đem lại chủ quyền cho Trung Quốc đối với Hoàng
Sa.
Bị vong lục – một
văn bản ngoại giao chính thức của Trung Quốc năm 1958 cũng công nhận xâm lược
không thể đem lại chủ quyền đối với vùng lãnh thổ. Thực tế, đến nay không quốc
gia nào công nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa. Việc Trung Quốc nói có
chủ quyền ở Hoàng Sa là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
Trung Quốc cố tình viện dẫn sai lệch Công thư
của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng 1958
Về việc Trung
Quốc gần đây bịa đặt rằng Việt Nam đã thừa nhận chính thức chủ quyền của Trung
Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa, đồng thời viện dẫn sai lệch công thư của cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia Trần Duy
Hải đã bác bỏ và phân tích như sau:
Công thư của cố
Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn không đề cập đến vấn đề lãnh thổ cũng như chủ
quyền, đồng thời không nhắc gì đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nội dung
công thư chỉ ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải 12 hải lý,
đồng thời chỉ thị cho các cơ quan của Việt Nam tôn trọng giới hạn 12 hải lý mà
Trung Quốc tuyên bố.
Việc công thư của
cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
cũng phù hợp với thực tế lúc đó là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm dưới vĩ
tuyến 17, thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa, được Pháp chuyển giao trên
thực tế năm 1956 và phù hợp với Hiệp định Geneva năm 1954 mà Trung Quốc cũng là
một bên tham gia.
Về giá trị pháp
lý Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ông Trần Duy Hải khẳng định, Công
thư là văn bản ngoại giao, nó có giá trị pháp lý nêu trong nội dung, đó là Việt
Nam tôn trọng 12 hải lý mà Trung Quốc công bố. Công thư không đề cập chủ quyền
chủ quyền lãnh thổ, Hoàng Sa, Trường Sa nên đương nhiên nó không có giá trị
trong vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa. Giá trị công thư cũng phải đặt trong bối cảnh
cụ thể. Công thư gửi cho Trung Quốc trong bối cảnh Hoàng Sa, Trường Sa đang
thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa theo Hiệp định Geneve mà Trung Quốc
có tham gia. Nói theo logic là "chúng tôi cũng không thể cho ai cái gì
không thuộc chúng tôi".
Như vậy, việc
Trung Quốc nói quần đảo Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc và không có tranh chấp là
mâu thuẫn với chính lời của các lãnh đạo Trung Quốc. Ngày 24/9/1975, trong trao
đổi với đồng chí Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn, Phó Thủ tướng
Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã thừa nhận rằng, giữa hai nước có tranh chấp về 2
quần đảo và hai bên có thể bàn bạc với nhau để giải quyết. Ý kiến của ông Đặng
Tiểu Bình đã được ghi lại trong bị vong lục của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày
12/5/1988, đăng trên Nhân dân nhật báo.
Xin lưu ý rằng,
năm 1958, Đặng Tiểu Bình khi đó là Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Trung Quốc nên
không thể không hiểu rõ những vấn đề này. Phía Trung Quốc không nên nói và làm
ngược lại với những gì mà lãnh đạo cấp cao của họ đã thừa nhận.
Trung Quốc âm mưu biến "đường lưỡi bò"
phi pháp thành sự thật
Ông Trần Duy Hải
cũng khẳng định Việt Nam bác bỏ hoàn toàn quan điểm của phía Trung Quốc nêu ra
trong bản viết sẵn lưu hành tại buổi họp báo quốc tế ngày 16/5/2014, cũng như
trong các bài viết, phát biểu của quan chức Trung Quốc, Trung Quốc cho rằng,
Việt Nam đã phân 57 lô dầu khí, trong đó có 7 mỏ đã đi vào khai thác và 37 giàn
khoan đang hoạt động tại các vùng biển có tranh chấp.
Trung Quốc cứ nêu
ra như vậy nhưng thực tế lại không hề đưa ra bất cứ một cơ sở pháp lý nào có
thể chứng minh cho luận điệu đó của họ.
“Tôi xin khẳng
định tất cả mọi hoạt động dầu khí mà Việt Nam đang thực hiện đều nằm trong thềm
lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, được xác định phù hợp với các
quy định của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982. Thực tế này đã được
cộng đồng quốc tế công nhận, nhiều công ty dầu khí nước ngoài đã và đang có hợp
đồng thăm dò, khai thác trên các lô dầu khí thuộc thềm lục địa Việt Nam. Từ lâu
nay, Việt Nam luôn thực hiện quản lý và khai thác có hiệu quả với vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của mình. Quan điểm trên của phía Trung Quốc thực
chất là nhằm biến những khu vực không có tranh chấp trên thềm lục địa Việt Nam
thành vùng tranh chấp, muốn biến yêu sách “đường lưỡi bò” vốn đang bị cả cộng
đồng quốc tế lên án - thành sự thật”, ông Trần Duy Hải nói.
Việt Nam kiên
quyết bác bỏ luận điệu sai trái này của Trung Quốc và khẳng định quyết tâm bảo
vệ chủ quyền và các quyền lợi chính đáng của mình đối với hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa bằng mọi biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Phó Chủ nhiệm Ủy
ban Biên giới Quốc gia Trần Duy Hải một lần nữa nhấn mạnh, chủ quyền lãnh thổ
là hết sức thiêng liêng với dân tộc Việt Nam, nên không thể đánh đổi được. Thủ
tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng mới đây đã khẳng định “không đánh đổi chủ quyền
lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông”. Việt Nam có 16 chữ vàng với Trung
Quốc. Vàng rất quý, nhưng chủ quyền quốc gia còn quý hơn vàng!
Chủ
quyền biển đảo (tổng hợp)
Theo: Petrotimes
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét