I. Những bước tiến đầy tính toán?
Ngày 3/5, trên trang web của Cục Hải sự Trung Quốc đã đưa
cảnh báo hàng hải số 14033 về việc giàn khoan Hải dương
981 (HD 981) “tác nghiệp tại Nam Hải”. Cảnh báo này cho biết, từ ngày 2/5 đến
15/8, giàn khoan HD 981 sẽ hoạt động tại tọa độ 15029’N/1110 12’E.
Cấm tất cả các loại phương tiện không được xâm nhập vào khu vực HD 981 hoạt
động trong phạm vi bán kính 1 hải lý. Sau đó, ngày 05/05/2014, Cục Hải sự Trung
Quốc đăng tiếp cảnh báo hàng hải số 14034, thông báo mở rộng bán kính hoạt động
của giàn khoan lên 03 hải lý tính từ khu vực trung tâm có tọa độ 15029’58”
vĩ Bắc - 1110 12’06” kinh Đông.
Theo dõi tình hình có liên quan đến sự kiện này và qua
ý kiến đánh giá của dư luận, thì có thể thấy rằng đây là một bước tiến mới nguy
hiểm, với nhưng toan tính rất tinh vi của Trung Quốc; là diễn biến tất yếu sau
những gì đã xẩy ra trong thời gian gần đây. Bởi vì:
1. Về thời điểm: đây là lúc trên thế giới có nhiều
diễn biến phức tạp. Mỹ cùng các nước châu Âu và Nga đang tập trung vào vấn đề
Ukaine. Đây cũng là một vấn đề nóng và hết sức nhạy cảm khi cả hai bên đều có
những “đòn” cân não và cả thế giới đều nín thở để chờ những gì sẽ xảy ra tiếp
theo. Rõ ràng, lúc này Biển Đông và Biển Hoa Đông không còn là những điểm nóng
số một khiến Mỹ và Nga… phải quan tâm hàng đầu nữa.
Thậm chí, sự khẳng định vai trò của khu vực châu Á – Thái
Bình Dương đối với Mỹ của Tổng thống Mỹ trong chuyến công du 4 nước châu Á mới
đây cũng mang tính hình thức nhiều hơn là thực chất…Trong bối cảnh hiện nay,
trong sự đối chọi tại Ukaine thì Nga và Trung Quốc sẽ có những mối quan hệ đặc
biệt hơn trong “thế cờ” địa-chính trị quốc tế…
Nhận rõ bản chất của việc Hoa Kỳ
đưa ra khẩu hiệu “chuyển trọng tâm sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương” chỉ
là khẩu hiệu và đặc biệt, sau một thời gian tiến hành những hoạt động lúc cứng,
lúc mềm trên nhiều lĩnh vực khác nhau để thử phản ứng của các nước có liên quan
trực tiếp hay gián tiếp trong khu vực và quốc tế gần xa, Trung Quốc đã có thể yên
tâm triển khai bước tiến mới của mình…
Mặt khác,Trung Quốc đang phải
đối phó với nhiều vấn đề chính trị, xã hội khá phức tạp, bất ổn, như Tân Cương,
Tây Tạng …, vì thế, việc họ đưa giàn khoan ra Biển Đông cũng có thể là giải
pháp chuyển mâu thuẩn nội bộ ra bên ngoài trong tình hình hiện nay.
Rõ ràng là họ đã chọn một thời điểm thuận lợi nhất để
hành động bằng phương thức có thể gọi là một cuộc “xâm lược kinh tế” mà mục
tiêu trước mắt là chiếm đoạt, vơ vét tài nguyên nằm trong các vùng biển
và thềm lục địa hợp pháp của các quốc gia ven Biển Đông.
2. Về vị trí đặt giàn khoanVị trí giàn khoan HD 981 được đặt trái phép |
Qua quan sát bản đồ thì vị trí này nằm cách đảo Lý Sơn
của Việt Nam 119 hải lý, cách đảo Tri Tôn mà họ đang chiếm 18 hải lý, cách ranh
giời ngoài Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo đúng quy định
của Công ước Luật Biển năm 1982 là 80 hải lý. Tuy đây là vị trí nằm hoàn toàn
trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, nhưng cũng phải thấy
rằng đây cũng là vị trí khá nhạy cảm mà Trung Quốc đã cố tình lựa chọn để
thực hiện chiến thuật “bắn một mũi tên trúng hai đích”: một là tiếp tục
khẳng định chủ quyền của họ đối với “Tây Sa”, thực hiện ý đồ
cố tình giải thích và áp dung sai Công ước Luật Biển 1982 trong việc mở rộng
phạm vi các vùng biển và thềm lục địa dựa vào vị trí của quần đảo này, cũng như
các quần đảo khác trong Biển Đông, nhằm hiện thực hóa yêu sách “đường
lưỡi bò”phi lý của họ; hai là, cố tình tạo ra vùng chồng lấn, biến vùng không
tranh chấp thành vùng tranh chấp để áp đặt chủ trương “gác tranh chấp, cùng
khai thác” mà mục tiêu trước mắt là tranh giành việc khai thác nguồn tài nguyên
sinh vật và không sinh vật vốn thuộc các vùng biển và thềm lục địa của các quốc
gia ở chung quanh Biển Đông theo quy định của Công ước Luật Biển 1982.
Để hợp thức hóa hành động sai trái của mình, Trung Quốc
ngụy biện rằng vị trí đặt giàn khoan cách đảo “Trung Kiến”( đảo Tri
Tôn) 18 hải lý, hoàn toàn nằm trong lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải của quần
đảo “Tây Sa”, bởi vì Trung Quốc hoàn toàn có chủ quyền dối với “Tây Sa” .
Vì vậy, nếu chúng ta không phân tích kỹ, không dựa
trên cơ sở các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982 để phân biệt rạch
ròi bản chất của “vị trí nhạy cảm” này thì có thể rơi vào bẫy pháp lý của
họ.
Như moi người đã
biết, quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc dùng vũ lực để xâm chiếm
hoàn toàn từ năm 1974 trở về trước và luôn luôn khẳng định họ có “chủ quyên
lịch sử”đối với quần đảo này, không cần phải bàn cãi.
Về vấn đề này quan
điểm của Việt nam cũng đã quá rõ ràng: Nhà
nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ
quyền đối với quần đảo này từ khi còn là đất vô chủ, chí ít là từ thế kỷ thứ
XVII. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thật sự, rõ ràng, liên tục và
hòa bình, phù hợp với nguyên tắc của Luật pháp và thực tiễn quốc tế đã và đang
có hiệu lực trong việc giải quyết tranh chấp quyền thụ đắc lãnh thô giữa cac
quốc gia. Việt Nam có đầy đủ các chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý để chứng
minh và bảo vệ chủ quyền của mình đối với quần đảo này.
Tuy nhiên, liên quan đế sự kiện này, có lẽ trọng tâm là nên
tập trung phân tích xem vị trí mà dàn khoan HD 891 của TQ đang hoạt động nẳm ở
vùng biển nào: lãnh hải, vùng tiếp giáp
lãnh hải hay vùng đặc quyền kinh tế của quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc gọi
là “Tây Sa” hay nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa của Việt Nam ?
Trước hết, dễ dàng nhận ra rằng, vị trí này không phải
nằm trong lãnh hải của quần đảo Hoàng Sa, thậm chí là của đảo Tri Tôn , vì nó ở
cách Tri Tôn 18 hải lý. Vậy thì chỉ có thể là nó đã nằm trong vùng đăc quyền về
kinh tế của quần đảo này (vì vùng tiếp giáp lãnh hải xét về phạm vi không gian,
vẫn là một bộ phận của vùng đặc quyền kinh tế). Vấn đề là quần đảo này có hội
đủ các tiêu chuẩn theo quy định của Công ước Luật Biển 1982 để có thể cho
phép quốc gia có chủ quyền mở rộng phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa của quần đảo này hay không?
Như mọi người đều biết, quần đảo này bao gồm các đảo, đá,
bãi cạn, rạn san hô…rất nhỏ bé, nằm trong khu vực có khi hậu khắc nghiệt,
không thích hợp cho đời sống của con người và đương nhiên không thể có đời sống
kinh tế riêng, mặc dù sau khi xâm chiếm bằng vũ lực, Trung Quốc đang cố tìm
cách tạo ra diện mạo đó. Hơn nữa, quần đảo này không phải là quốc gia quần đảo.
Vì thế, việc vạch ra hệ thông đường cơ sở để từ đó xác định phạm vi các
vùng biển và thềm lục địa của quần đảo này là hoàn toàn khác với quốc gia quần
đảo . Vì những lý do đó , có thể khẳng định rằng quần đảo này không
thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục đia theo quy định của Công ước
của LHQ về Luật Biển 1982 ; có chăng thì từng đảo nổi theo đung quy định của Điều
121 của Công ước Luật Biển 1982 chỉ có thể có vùng lãnh hải rộng 12 hải lý mà
thôi. Việc Trung Quốc đã vạch một đường cơ sở bao trọn quần đảo mà họ gọi là
“Tây Sa” để từ đó tạo ra vùng chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
là sai với quy định của Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982. Do đó, có
thể khẳng định rằng vị trí của dàn khoan này hoàn toàn nằm sâu trong vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, không có liên quan gì đến quần đảo
Hoàng Sa mà Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép và đang cố tình giải thích và
áp dung sai Công ước Luật Biển năm 1982 để biện minh cho yêu sách vô lý, đầy
tham vọng của mình.
3. Về chủ trương, chính sách biển của Trung Quốc:
Trung Quốc không bao giờ từ bỏ mưu đồ độc chiếm Biển Đông
nằm trong chiến lược vươn lên trở thành siêu cường quốc tế. Trước hết họ tìm
mọi cách hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò”. Lần này, hành động của
họ thể hiện quyết tâm mạnh mẽ hơn nhiều. Cách đi của họ rất bài bản , có sự kết
hợp nhiều yếu tố: đối nội, đối ngoại, chính trị, kinh tế…
Đáng lưu ý là họ đang sử dụng các biện pháp mang tính dân
sự, kinh tế, chứ không phải là các hành động quân sự như trước đây. Đó mới là
điều nguy hiểm. Cách làm đó của Trung Quốc khiến cho dư luận thế giới lầm tưởng
rằng họ đã “xuống thang” và từ đó mà lơ là mất cảnh giác trước những toan tinh
tinh vi, mưu mẹo của họ.
Họ sẽ tiếp tục bằng những hoạt động tương tự về kinh tế và
dân sự như kéo giàn khoan , thậm chí tổ chức thêm việc đấu thầu khai thác dầu
tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Họ cũng có thể sẽ có những hoạt động
nghiên cứu khoa học, đi sâu vào vùng biển của các nước trong khu vực để biến
khu vực không có tranh chấp thành vùng có tranh chấp. Họ có thể sẽ dùng các
biện pháp như ra các lệnh cấm để có tạo ra cho mình được quyền (bất hợp pháp)
để kiểm tra, kiểm soát những tàu bè, phương tiện bay, những hoạt động
kinh tế của các nước khác, hoạt động hàng hải, hang không quốc tế qua
vùng Biển Đông….
Trung Quốc thực hiện những điều này có nghĩa là họ đã bất
chấp luật pháp quốc tế, bất chấp dư luận, dùng thế của mình để áp đảo các nước
khác. Rõ ràng khi thực hiện các hành động phi pháp của mình, Trung Quốc đã
“vứt” Công ước Luật Biển năm 1982 vào sọt rác. Và Bộ quy tắc ứng xử trên Biển
Đông ( COC), mà Công đồng ASEAN đang kỳ vọng, cũng sẽ khó có thể thành
công và nếu có, cũng chẳng có giá trị gì khi nó chỉ mang tính chất là một
giải pháp tình thế, tạm thời; với Trung Quốc cũng chỉ là một công cụ
ngoại giao, là cái cớ để trì hoãn mọi giải pháp thực chất, cơ bản nhằm
bảo vệ lợi ích chính đáng của mọi quốc gia có liên quan trong khu vực.
II. Việt Nam phải làm gì?
1.Trước tình hình trên, các nước Đông Nam Á có liên quan đến
Biển Đông cần nhận định lại về cách hành xử của Trung Quốc để từ đó có tiếng
nói chung mạnh mẽ hơn, nếu muốn ngăn chặn được “ con bạch tuôc” khổng lồ
này tiếp tục tiến sâu vào những vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán hợp pháp để hút cạn nguồn tài nguyên thiên nhiên; chiếm đoạt,
cắt đứt nguồn sống của cả cộng đồng quốc gia, khu vực…
2. Hành động kéo giàn khoan vào vùng biển thuộc quyền
chủ quyền của Việt Nam là một hành động vi phạm luật pháp một cách trắng
trợn. Một trong những việc làm quan trọng của chúng ta lúc này là phải để cho
dư luận thế giới hiểu rõ rằng các quyền hợp pháp của Việt Nam tại Biển
Đông đến đâu và những hành động của Trung Quốc đã bất hợp pháp như thế nào.
Công việc tuyên truyền này cần được đẩy mạnh và tiến hành thường xuyên.
3. Tiếp tục có những phản ứng ngoại giao mạnh mẽ, hiệu
quả, trên cơ sở đảm bảo thực hiện chính sách ngoại giao đúng đắn của Đảng và
Nhà nước Việt Nam trong quan hệ với các nước láng giềng trong khu vực và quốc
tế.
Tại cuộc điện đàm với Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết
Trì, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh đã nhấn mạnh việc Trung Quốc
đơn phương đưa giàn khoan HD-981 và một lượng lớn tàu các loại, kể cả tàu quân
sự vào hoạt động ở khu vực này là bất hợp pháp, đi ngược lại luật pháp và thông
lệ quốc tế…
Việt Nam sẽ áp dụng mọi biện pháp phù hợp cần thiết để
bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình. Đồng thời, Việt Nam luôn thể hiện thiện chí, kiên trì giải
quyết thỏa đáng bất đồng thông qua đàm phán, đối thoại và các biện pháp hòa bình kháctheo
đúng nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai nước, Thỏa thuận về các Nguyên
tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển, phù hợp với các quy định và
thực tiễn Luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982,
không để vấn đề này tổn hại đến sự tin cậy chính trị và hợp tác giữa hai bên.
Nội dung của cuộc điện đàm này đã thể hiện rõ ràng lập
trường của Việt Nam trước bước tiến mới này của Trung Quốc. Trong đó, có đề cập
đến việc giải quyết thỏa đáng các bất đồng thông qua đàm phán, đối thoại và các biện pháp hòa bình khác.
Các biện pháp hòa bình khác đó là gì? Một trong những biệp pháp hòa bình
thông dụng nhất là vai trò của các cơ quan tài phán quốc tế trong việc giải
quyết các tranh chấp có liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước của
LHQ về Luật Biển năm 1982.
Có lẽ đã đến lúc Việt Nam cần khẩn trương thực hiện biện
pháp này: kiện Trung Quốc lên Tòa án của
LHQ về Luật Biển theo đung thủ tục và cơ chế thích hợp mà Công ước Luật Biển
1982 quy định. Ap dụng thủ tục này là một sinh hoạt bình thường để
xử lý các quan hệ trong một xã hội văn minh, hiện đại, quốc nội cũng như
quốc tế. Nó chỉ có thể củng cố hơn nữa mối quan hệ hưu nghị giữa các quốc gia
láng giềng một các lâu dài , bền vững, dựa trên nền tảng của nhưng quy định,
pháp lý quốc tế đã được loài người dày công xây dựng.
4.Trong điện đàm của Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh còn có một
nội dung quan trọng nữa, đó là việc Việt
Nam sẽ áp dung mọi biên pháp phù hợp cần thiết để bảo vệ các quyền và lợi ích
chính đáng của mình.
Nhìn vào truyền thống lịch sử của dân tộc này trước những
hành vi vi phạm lợi ích quốc gia thì những người lãnh đạo, mỗi một lực lương,
tổ chức, cá nhân người Việt Nam sẽ biết phải làm gì để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của
mình./.
Chủ quyền biển đảo (tổng hợp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét