Những tuyên bố và hành
động nhằm “độc chiếm” Biển Đông của Trung Quốc, mới nhất là vụ hạ đặt giàn
khoan Hải Dương-981 sâu trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt
Nam, là hoàn toàn phi lý, vi phạm luật pháp quốc tế.
Kỳ 2: Phớt lờ luật pháp quốc tế
Việc TQ hạ đặt
giàn khoan trong thềm lục địa,vùng đặc quyền kinh tế của VN là không thể chấp
nhận
|
Trung Quốc đã phớt lờ những tinh thần cơ bản nhất trong Hiến chương Liên
hợp quốc. Với các hành động “xâm lấn” chủ quyền tại Biển Đông như đã nêu trên,
Trung Quốc đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản được quy định ở Điều 2 của Hiến
chương, nhất là nguyên tắc bình đẳng chủ quyền, cấm sử dụng và đe dọa sử dụng
vũ lực; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không làm nguy hại
đến hòa bình và an ninh quốc tế và công lý; nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ
hợp tác với nhau. Chính quyền Bắc Kinh cũng vi phạm Điều 33 về “giải quyết hòa
bình các tranh chấp” quy định: Các bên đương sự trong các tranh chấp trước hết,
phải tìm cách giải quyết bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hòa
giải, trọng tài, tòa án, sử dụng những tổ chức hoặc những hiệp định khu vực,
hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác.
Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS
mà nước này là thành viên. UNCLOS cho phép các quốc gia ven biển có quyền thiết
lập vùng đặc quyền kinh tế rộng không quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở; cũng
như thiết lập một vùng thềm lục địa có chiều rộng tính từ đường cơ sở đến rìa
lục địa hẹp nhất là 200 hải lý và rộng nhất là 350 hải lý. Nhưng vì nguyên tắc
của luật pháp quốc tế quy định “đất thống trị biển” nên bất kỳ chiều rộng của
vùng lãnh hải nào trên Biển Đông phải được dựa vào hướng chiếu ra từ đất liền.
Việc giải quyết phân định lãnh hải được thể hiện trong UNCLOS, đặc biệt là các
Điều 15 (phân định lãnh hải), Điều 74 (phân định Vùng đặc quyền kinh tế), Điều
83 (ranh giới thềm lục địa) và Điều 121 (quy chế của đảo). Đối chiếu với các
quy định này, các tuyên bố về “đường 9 đoạn” và những hành động xác lập chủ
quyền theo “đường này” là không có cơ sở pháp lý.
Việc Trung Quốc dùng vũ lực chiếm quần đảo Hoàng Sa và một số đảo ở
Trường Sa của Việt Nam để từ đó xác lập chủ quyền “hợp pháp” tại những “vùng
nước liên quan” và “vùng nước lân cận” theo “đường 9 đoạn” lại là một bước sai
nữa. Điều 2, khoản 4 của Hiến chương LHQ nêu rõ: “Lãnh thổ của một quốc gia
không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái
với các quy định của Hiến chương”. Hơn nữa, ngay tại thời điểm năm 1974, chính
quyền miền Nam Việt Nam đã đưa ra lời phản đối lên Liên hợp quốc, công bố sách
trắng về các quần đảo và lên án hành động xâm chiếm bất hợp pháp Hoàng Sa của
Trung Quốc. Liên tục từ đó đến nay, Việt Nam luôn khẳng định quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Theo công
pháp quốc tế, một sự chiếm giữ lãnh thổ sẽ không được xem là chấm dứt chỉ đơn
giản bằng sự biến mất các bằng chứng chiếm giữ vật chất. Nói cách khác, sự gián
đoạn các biểu hiện chiếm giữ vật chất tự nó không làm gián đoạn chủ quyền của
một quốc gia nếu như họ không tuyên bố ý định từ bỏ lãnh thổ một cách rõ ràng.
Chiểu theo hướng này, Trung Quốc khẳng định vị trí đặt giàn khoan Hải Dương-981
cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa 17 hải lý là “hợp pháp” chỉ là một lời
ngụy biện. Chỉ có Việt Nam
- quốc gia có chủ quyền hợp pháp với quần đảo Hoàng Sa - mới có chủ quyền và
quyền chủ quyền đối với các vùng quanh đó.
Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng các thỏa thuận đã cam kết với ASEAN,
cụ thể là Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) ký kết năm
2002. Theo văn kiện này, các bên khẳng định tuân thủ mục tiêu và các nguyên tắc
của Hiến chương LHQ, UNCLOS; cam kết giải quyết các tranh chấp lãnh thổ bằng
các biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, phù
hợp với các nguyên tắc phổ cập của luật pháp quốc tế; cam kết kiềm chế không
tiến hành các hoạt động có thể làm phức tạp thêm hoặc gia tăng tranh chấp và
ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định... Những hoạt động gần đây như “xâm lấn” bãi
cạn Scarborough nằm cách bờ biển Philippines khoảng 124 hải lý và hoàn toàn
thuộc vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của nước này; hạ đặt giàn khoan vào sâu
80 hải lý vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, ban hành lệnh cấm bắt cá trên
Biển Đông, đòi chủ quyền theo “đường 9 đoạn”... mà Trung Quốc thực hiện rõ ràng
đã vi phạm các nội dung trong DOC.
Cuối cùng, lời nói và việc làm của Trung Quốc đã đi ngược lại những thỏa
thuận cấp cao cam kết với Việt Nam, nhất là Thỏa thuận về nguyên tắc giải quyết
các vấn đề trên biển giữa hai nước năm 2011. Việc Trung Quốc cho hạ đặt giàn
khoan Hải Dương-981, chào thầu các lô dầu khí nằm trong vùng đặc quyền kinh tế
của Việt Nam, cản trở hoạt động của các tàu cá, tàu thăm dò địa chấn của Việt
Nam... chắc chắn sẽ không thể được xem là biểu hiện của việc “lấy đại cục quan
hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục”, phương
châm “16 chữ”, tinh thần “4 tốt”; kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử
lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng
biển hòa bình, hữu nghị; giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu
nghị...
Chủ quyền biển đảo (tổng hợp)
Theo: Dân trí
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét