Sử dụng vũ
lực hay đe dọa sử dụng vũ lực không phải là một giải pháp phù hợp để “chiếm hữu
chủ quyền” ở Biển Đông, vì nó chống lại luật pháp quốc tế, hủy hoại hòa bình thế
giới và khu vực. Hơn nữa, dù có chiếm được trên thực địa thì về mặt pháp lý,
quốc gia xâm chiếm cũng không bao giờ được các nước thừa nhận chủ quyền. Trong
bối cảnh đó, các bên liên quan có thể tìm đến một số hướng giải quyết sau:
Sử dụng kênh đàm phán, đối thoại: Là biện pháp
phù hợp nhất với các bên. Có thể phải mất nhiều thời gian, nhưng kết quả đạt
được cuối cùng sẽ giúp xử lý một cách căn bản, lâu dài các tranh chấp, mâu
thuẫn. Hình mẫu cũng đã có: Mới nhất là việc ngày 23/5 vừa qua, Philippines và
Indonesia đã ký kết “Hiệp định phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế” trên
vùng biển Mindanao và Celebes, sau 20 năm đàm phán. Một biểu hiện thấp hơn của
biện pháp này là “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Trên thế giới đã có nhiều
thỏa thuận về các dàn xếp tạm thời “khai thác chung” dưới nhiều hình thức và
trong các lĩnh vực khác nhau như đánh bắt cá, khai thác dầu khí. Đó là Hiệp
định về khai thác chung Nhật Bản - Hàn Quốc (1974) ở khu vực biển chồng lấn;
Hiệp định về phát triển chung vùng biển chồng lấn ở Biển Đông Timor giữa
Australia và Indonesia năm (1989).
Một Trung Quốc “trỗi dậy hòa bình” không nên hành xử theo cách này |
Trung Quốc dường như chưa cho thấy sự sẵn sàng,
thật tâm đối với lựa chọn này. Đơn cử như tiến trình xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử
ở Biển Đông (COC), một văn bản cao hơn so với DOC, có tính ràng buộc pháp lý.
Bắc Kinh không thực sự hưởng ứng, nếu không nói là muốn trì hoãn. Với “gác tranh
chấp, cùng khai thác”, từ thời Đặng Tiểu Bình đến nay, Trung Quốc lần lượt nêu
ý tưởng này với Philippines, Indonesia, Singapore, Malaysia và Việt Nam, nhưng
kiên quyết bảo lưu điều kiện tiên quyết “chủ quyền thuộc về Trung Quốc” - một
điều không thể chấp nhận được, vì nó làm lộ rõ ý đồ biến những vùng biển “không
tranh chấp” thành “tranh chấp”, để dễ bề kiểm soát Biển Đông.
Viện tới các công cụ pháp lý: Luật pháp quốc tế
là một công cụ giúp giải quyết các tranh chấp. Điều 287 của UNCLOS quy định khi
ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia Công ước hay ở bất kỳ thời điểm nào sau
đó, để giải quyết các tranh chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng
Công ước, quốc gia được quyền tự do lựa chọn, dưới hình thức tuyên bố bằng văn
bản một hay nhiều biện pháp sau: 1. Tòa án công lý quốc tế (ICJ); 2. Tòa trọng
tài quốc tế về Luật Biển (ITLOS); 3. Một tòa trọng tài được thành lập theo đúng
Phụ lục VII của Công ước; 4. Một tòa trọng tài đặc biệt để giải quyết các tranh
chấp trong từng lĩnh vực riêng biệt như nghiên cứu khoa học biển, nghề cá, giao
thông biển... được thành lập theo đúng Phụ lục VII của Công ước. Phổ biến hơn
cả là cơ chế giải quyết tranh chấp qua ICJ và ITLOS.
ICJ là một cơ quan tư pháp chủ chốt của LHQ.
Theo quy chế của ICJ, phán quyết cuối cùng của 15 thẩm phán có giá trị chung
thẩm, không có kháng cáo kháng nghị hay phúc thẩm và có hiệu lực thực thi tức
thì. Trường hợp nếu một bên ở trong vụ tranh chấp đã đồng thuận ra tòa mà không
thực thi phán quyết của tòa thì bên kia có quyền yêu cầu Hội đồng Bảo an LHQ
can thiệp để buộc thi hành. Trung Quốc là một thành viên thường trực Hội đồng
Bảo an có quyền phủ quyết, nên những việc khởi kiện nước này tại ICJ sẽ gặp rắc
rối. Liên quan đến Biển Đông, cả Indonesia, Singapore, Malaysia đã cùng đưa vấn
đề chủ quyền biển đảo ra ICJ và chấp nhận phán quyết cuối cùng. Năm 2002, ICJ
đã quyết định trao chủ quyền đối với hai hòn đảo Pulau Ligitan và Pulau Sipadan
cho phía Malaysia trong vụ tranh chấp với Indonesia. Đến năm 2008, ICJ ra phán
quyết trao chủ quyền đối với đảo Pedra Branca cho Singapore, Middle Rock thuộc
về Malaysia, còn South Ledge được chia tách cho cả hai nước căn cứ theo lãnh
hải, sau khi hai nước này cùng đệ đơn lên ICJ hồi năm 2003.
Tòa trọng tài quốc tế về luật biển (ITLOS) là
một cơ quan tài phán riêng biệt, được thành lập theo UNCLOS nhằm giải thích các
điều khoản và việc áp dụng Công ước. Tuy nhiên, ITLOS không có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp về lãnh thổ và biên giới, mà chỉ có thẩm quyền giải quyết
các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng UNCLOS. Nói một cách
đơn giản, việc khởi kiện nhằm vào Trung Quốc chỉ có thể hướng đến các nội dung
như khởi kiện tuyên bố và hành động “xác lập chủ quyền” của Bắc Kinh theo
“đường 9 đoạn”. Đó chính là cách mà Philippines đã làm khi thông báo và khởi
kiện Trung Quốc tại ITLOS hồi tháng 1/2012.
Quan điểm của Trung Quốc đối với giải quyết
tranh chấp qua con đường pháp lý đã rõ: Họ tuyên bố không chấp nhận các phán
quyết quốc tế, dựa theo các bảo lưu tại Điều 298 của UNCLOS, có quyền không
chấp nhận bất kỳ biện pháp giải quyết tranh chấp nào theo quy định tại Điều
287, dựa trên đường hướng “2 không” - không đa phương hóa, không quốc tế hóa
các tranh chấp. Khi Philippines kiện, Trung Quốc cũng không chấp nhận thẩm
quyền của tòa án, không chấp nhận đưa ra tòa án Luật Biển nhưng tòa vẫn chấp
nhận đơn kiện của Philippines. Tuy nhiên, “cái giá” mà Trung Quốc phải trả
trong lối hành xử này chính là hình ảnh trước quốc tế, liên quan đến tính
“chính nghĩa, hợp pháp” trong những yêu sách, đòi hỏi “chủ quyền” đối với Biển
Đông.
Không thật tâm giải quyết tranh chấp bằng biện
pháp hòa bình, theo luật pháp quốc tế, Trung Quốc quyết bám níu vào “đường 9
đoạn” mờ ảo, hư vô, không có giá trị pháp lý. Trung Quốc đang thực sự muốn gì?
“Độc chiếm Biển Đông” là ý đồ xuyên suốt. Trong khi chờ thời điểm thích hợp để
hiện thực hóa mục tiêu trên thì Bắc Kinh sẽ có các hành động làm “dậy sóng”
Biển Đông, như những gì đang xảy ra trong vụ hạ đặt giàn khoan Hải Dương - 981.
Có một điều chắc chắn, chân lý và đạo lý sẽ không cho phép Trung Quốc “ôm trọn”
Biển Đông, vì nếu nước này thành công trong cái gọi là “đòi lại” hơn 3 triệu
km2 diện tích đang bị “chiếm đoạt”, thì thực sự thế giới sẽ phải chứng kiến một
hành vi “chiếm đoạt lãnh thổ quy mô lớn nhất thế giới kể từ sau Thế chiến 2”
theo nhận định của tạp chí Forbes.
Chủ quyền biển đảo (tổng hợp)
Theo: baotintuc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét