Quan sát sự khác biệt giữa lời nói và
việc làm của Trung Quốc ở Biển Đông, Ryan Santicola - chuyên gia về luật tại
Hải quân Mỹ - kết luận Trung Quốc không có cách tiếp cận nhất quán. Brad
Gloasserman, Giám đốc điều hành Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS),
cũng thấy khó giải thích lý do Trung Quốc lại chọc giận nhiều nước láng giềng
cùng một lúc. Tuy nhiên, nếu xem xét các động thái của Trung Quốc dưới
lăng kính văn hóa chiến lược của nước này thì những hành vi của Bắc Kinh
ở Biển Đông không có gì là khó hiểu.
Tàu Trung Quốc dùng vòi rồng tấn công tàu
Cảnh sát biển của Việt Nam
|
Ván cờ
chính trị
Theo ông Đỗ Thanh Hải, nghiên cứu sinh
Tiến sĩ tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc phòng, Đại học Quốc gia
Australia, Trung Quốc nhìn chính trị quốc tế như một ván cờ lớn, trong đó mỗi
nước đi là một phần của chiến lược tổng thể để "giành chiến thắng".
Có ba điều quan trọng trên bàn cờ đó. Thứ nhất, sự bí mật và mưu kế là đặc biệt
quan trọng để đánh bại đối một đối thủ có ưu thế hơn mình. Thứ hai, Trung Quốc
thường toan tính dài hạn, đặt mục tiêu thay đổi chậm mà chắc hơn là có tính
cách mạng, và "lợi dụng tối đa các cơ hội". Bên cạnh đó, Trung Quốc
kiên nhẫn hơn phương Tây. Bắc Kinh có thể kiên trì đợi chờ thời điểm chín muồi
để hành động. Thứ ba, các nhà hoạch định chiến lược của Trung Quốc không coi
"chiến tranh" là ưu tiên hàng đầu. Như Giáo sư Thomas G. Mahnken tại
Đại học Chiến tranh Hải quân Mỹ đã chỉ ra, Trung Quốc muốn tạo ra “thế” để
không chiến mà thắng. Những yếu tố này phần nào giải mã hành động của Trung
Quốc ở Biển Đông.
Là một cường quốc đang trỗi dậy, Trung
Quốc cần có một vùng ảnh hưởng ở xung quanh biên giới của mình. Nói cách khác,
cuối cùng Trung Quốc sẽ tìm mọi cách để đẩy Mỹ ra khỏi Đông Bắc Á và Đông Nam
Á. Vì Trung Quốc chưa đuổi kịp Mỹ về quân sự, chiến lược lớn của nước này là
tránh đối đầu trực diện với Mỹ, sử dụng áp lực để "thu phục" các nước
láng giềng, buộc họ phải tự rời khỏi vòng tay của Mỹ.
Trong chiến lược lớn này, Biển Đông là
đấu trường chính vì ba lý do. Một, Biển Đông là một vùng biển nửa kín án ngữ
nhiều tuyến đường biển quan trọng tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung
Quốc). Thứ hai, các quốc gia vừa và nhỏ ở khu vực Biển Đông có ít khả năng
cưỡng lại sức mạnh vượt trội của Trung Quốc. Cuối cùng, sự hiện diện của Mỹ ở
Biển Đông yếu hơn nhiều so với ở Biển Hoa Đông. Từ nhãn quan chiến lược của
Trung Quốc, Biển Đông là điểm yếu nhất, nếu không nói là "gót chân
Achilles" của toàn bộ hệ thống an ninh của Mỹ ở Châu Á-Thái Bình Dương.
Bằng chứng cho tham vọng của Trung Quốc ở
Biển Đông là yêu sách đường 9 đoạn. Tuyên bố này không có cơ sở pháp lý và trái
với Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Trung Quốc công khai yêu
sách này vào tháng 5/2009 trong công hàm phản đối Báo cáo chung của Việt Nam và
Malaysia nộp lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc. Bất chấp sự
chỉ trích ngày càng tăng và đề nghị giải thích của nhiều nước, Trung Quốc tránh
né làm rõ ranh giới và bản chất của yêu sách đó. Sự mập mờ tạo ra mức độ linh
hoạt lớn hơn cho Trung Quốc để diễn giải quyền và tài phán của nước này đối với
một vùng biển rộng lớn mà Trung Quốc gọi là “vùng nước lịch sử’, chiếm tới 80%
Biển Đông.
Các sự kiện ở Biển Đông cho thấy chiến
lược "xảo quyệt" của Trung Quốc nhằm chèn ép các quốc gia có tuyên bố
chủ quyền ở vùng biển này. Chiến lược này có 4 thành tố. Thứ nhất, Trung Quốc
phát triển một lực lượng hải quân đủ khả năng để ngăn chặn Mỹ ở bên ngoài chuỗi
đảo thứ nhất (nhóm quần đảo lớn đầu tiên nằm ngoài lục địa Đông Á), và cũng đủ
sức để đè bẹp hải quân của các quốc gia Đông Nam Á.
Thứ hai, Trung Quốc sử dụng lực lượng tàu
bán quân sự và dân sự làm phương tiện cơ bản để thách thức nguyên trạng trên
Biển Đông. Đến nay, với các tàu cá và tàu chấp pháp, Trung Quốc đã giành được
sự kiểm soát đối với bãi Trăng Khuyết (Scarborough Shoal) và đã phong tỏa
Philippines ở Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal).
Thứ ba, Trung Quốc sử dụng giàn khoan di
động khổng lồ để kiểm soát không gian biển. Từ ngày 1/5/2014, Trung Quốc đã
điều giàn khoan Hải Dương-981 và hơn 100 tàu các loại đến vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa của Việt Nam. Hải Dương-981 không đơn thuần là một giàn
khoan dầu, mà nó còn được Bắc Kinh xem là một "cột mốc chủ quyền di
động" của Trung Quốc.
Vụ việc giàn khoan Hải Dương-981 đang báo
động ở mức độ bạo lực. Các tàu cá và tàu chấp pháp của Trung Quốc, có sự yểm
trợ của tàu chiến, không ngần ngại sử dụng bạo lực cường độ thấp như đâm húc,
sử dụng loa công suất lớn và bắn vòi rồng để phá hỏng và đe dọa các tàu đối
phương. Máy bay của Trung Quốc bay ở tầm thấp để uy hiếp tàu thuyền của Việt
Nam. Va chạm và vòi rồng đã làm bị thương nhiều thủy thủ và làm nhiều tàu của
Việt Nam hư hỏng.
Để bảo vệ giàn khoan Hải Dương-981, Trung
Quốc đã ngang nhiên áp đặt quy định hạn chế đi lại ở quanh khu vực giàn khoan.
Lúc đầu, Trung Quốc tuyên bố khu vực cấm tàu bè nước ngoài với bán kính 1 hải
lý từ vị trí giàn khoan. Khoảng cách này sau đó được nâng lên thanh 3 hải lý.
Trên biển, các tàu Trung Quốc chủ động thiết lập vùng cấm ở phạm vi 20-25 hải
lý từ giàn khoan. Một tàu đánh cá của Việt Nam đã bị đâm chìm ở vị trí cách
giàn khoan 17 hải lý.
Thứ tư, Trung Quốc sử dụng ngoại giao như
là một chiến thuật đánh lạc hướng dư luận. Lãnh đạo Trung Quốc lặp đi lặp lại
rằng nước này “trỗi dậy hòa bình”. Mặc dù tuyên bố theo đuổi việc giải quyết
các tranh chấp qua con đường song phương nhưng Bắc Kinh từ chối thỏa hiệp về
vấn đề chủ quyền. Trung Quốc cũng trì hoãn bất kỳ nỗ lực hướng đến xây dựng một
Bộ Quy tắc Ứng xử (COC), mặc dù đây là một trong các cam kết trong Tuyên bố Ứng
xử của các bên ở Biển Đông (DOC) ký năm 2002. Tại các hội nghị quốc tế, các
quan chức và học giả Trung Quốc thường né tránh bàn luận chi tiết về cơ sở pháp
lý của yêu sách đường 9 đoạn và đổ lỗi cho "các bên tranh chấp khác"
cũng như Mỹ là nguyên nhân buộc họ phải quyết đoán.
Mỹ đối phó
như thế nào?
Trung Quốc đang buộc các đối thủ chơi ván
cờ của họ, và trong ván cờ đó Trung Quốc dường như đang có lợi thế. Các “va
chạm dưới mức bạo lực” có thể đủ để bẻ gãy ý chí của đối thủ nhỏ hơn trong khi
tránh được sự can thiệp mạnh mẽ từ phía Mỹ.
Washington đã khẳng định vai trò lãnh đạo
của mình ở Thái Bình Dương qua chính sách “tái cân bằng” với một loạt các biện
pháp quân sự, kinh tế và ngoại giao. Mỹ cũng là nước lớn tiếng trong việc chỉ
trích các hành động đơn phương của Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ vẫn chưa có một
chiến lược toàn diện và lâu dài để đối phó với Trung Quốc ở Biển Đông. Nếu Mỹ
để xu hướng hiện tại tiếp diễn, vị thế của Washington ở Biển Đông sẽ bị suy
giảm.
Trước nguy cơ thất thế ở một khu vực
chiến lược trọng yếu, Mỹ nên thực hiện bốn biện pháp. Một là, Mỹ nên lên án và
phản ứng mạnh mẽ trước các mưu đồ nhằm thay đổi nguyên trạng tại Biển Đông. Hai
là, Mỹ nên có biện pháp cụ thể để đảm bảo an toan hàng hải và thúc đẩy việc áp
dụng nghiêm túc UNCLOS 1982. Mỹ nên có tuyên bố rõ hơn và mạnh mẽ hơn nhằm bác
bỏ yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc. Ba là, Mỹ nên thúc đẩy các cuộc thảo
luận nghiêm túc về một bộ quy tắc ứng xử có tính ràng buộc và các giải pháp căn
bản, lâu dài cho các tranh chấp. Mỹ không nên đơn thương độc mã làm các việc
trên, mà nên hợp tác với các chặt chẽ với các quốc gia có tuyên bố chủ quyền ở
Biển Đông cũng như các quốc gia sử dụng biển để xây dựng một trật tự pháp luật
minh bạch và đáng tin cậy ở Biển Đông.
Trung Quốc đã "đá quả bóng" về
phía Mỹ và Washington cần có một phản ứng quyết liệt hơn.
Chủ quyền biển đảo (tổng hợp)
Theo: baotintuc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét