Tờ Eur Asia Review ngày đăng phân tích của tiến sĩ
Subhash Kapila cho rằng, Biển Đông bùng nổ thành điểm nóng ở châu Á-Thái Bình
Dương trong thế kỷ 21 đều bắt nguồn từ hành vi Trung Quốc xâm lược quần đảo
Hoàng Sa (1974) và một phần quần đảo Trường Sa (1988, 1995) của Việt Nam.
Trung Quốc huy động rất nhiều tàu lớn với
chiến thuật dàn hàng ngang để bảo vệ việc hạ đặt trái phép giàn khoan HD- 981
trên vùng biển của Việt Nam. Ảnh: canhsatbien.vn
Để lấp liếm cho hành động này, Trung Quốc
đã đưa ra yêu sách "chủ quyền từ thời cổ đại" đối với 2 quần đảo
trên, nhưng một điều lạ là cho đến nay họ không đưa ra được bất kỳ lời giải
thích rõ ràng nào.
Bài phân tích của tiến sĩ Kapila viết:
Bắc Kinh cũng không thể giải thích tại sao họ "sáp nhập" Tây Tạng năm
1950 mà phải đợi 20 năm sau mới "sáp nhập" (thực tế là xâm lược)
Hoàng Sa, 14 năm tiếp theo để "sáp nhập" Trường Sa bằng vũ lực. Và
phải mất 60 năm, họ mới tuyên bố Biển Đông là "lợi ích quốc gia cốt
lõi"?
Rõ ràng gần đây khi tuyên bố Biển Đông là
"lợi ích cốt lõi", Trung Quốc đang nhằm mục đích đồng bộ hóa tham
vọng phi nước đại chiến lược để trở thành một trung tâm quyền lực ở Tây Thái
Bình Dương. Thôn tính Hoàng Sa và tiếp theo là Trường Sa là bước mở đường cho
quá trình này.
Bất chấp những nỗ lực giải quyết vấn đề
Biển Đông một cách hòa bình, tránh vũ lực, Trung Quốc vẫn tiếp tục mở rộng yêu
sách đường lưỡi bò của họ mà cho đến nay vẫn không có tọa độ chính xác.
Quá trình giải quyết vấn đề Biển Đông
phải đối mặt với khó khăn thực tế rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ có một phần
nỗ lực giải quyết vấn đề Biển Đông một cách hòa bình, bởi tính toán chiến lược
của họ là sau khi thôn tính được Hoàng Sa, Trường Sa sẽ thống trị hiệu quả toàn
bộ Biển Đông.
Hành động khiêu khích của Trung Quốc xâm
lược, chiếm đóng bất hợp pháp ở Hoàng Sa và Trường Sa vẫn tiếp tục mà không hề
suy giảm từ lúc họ phát động chiến tranh xâm lược cho đến nay, bằng chứng là
việc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng đặc quyền kinh tế,
thềm lục địa Việt Nam đầu tháng 5 vừa qua.
Vụ Trung Quốc xâm lược quần đảo Hoàng Sa
và một phần Trường Sa của Việt Nam đã đi vào tiềm thức khu vực và quốc tế như
một ví dụ điển hình trong xu hướng của Bắc Kinh muốn sử dụng lực lượng quân sự
để khẳng định các tuyên bố chủ quyền trên cái gọi là "căn cứ lịch sử"
của họ.
Bắc Kinh tiếp tục tạo thêm các nguy cơ
xung đột ở Biển Đông sau khi chính thức công bố đường lưỡi bò và mở rộng các
điểm chiếm đóng trái phép ở Trường Sa. Do đó, Trung Quốc ngày nay không chỉ còn
xung đột với Việt Nam ở Hoàng Sa hay Trường Sa, mà còn với Philippines,
Malaysia và Brunei.
Chính những điều này đã tạo nên chiến
lược chống lại (sự bành trướng, khiêu khích của) Trung Quốc trong các nước láng
giềng. Căng thẳng Biển Đông không chỉ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng
mà còn giữa Trung Quốc với Mỹ khi Washington xem tự do hàng hải ở Biển Đông là
lợi ích quốc gia. Mỹ đã có kế hoạch quân sự dự phòng tại chỗ để đối phó với bất
kỳ xung đột vũ trang nào trên Biển Đông.
Một thực tế có thể kiểm chứng là Trung
Quốc chống lại bất kỳ quy trình giải quyết xung đột nào phát sinh từ Hoàng Sa,
Trường Sa mà làm giảm tính toán chiến lược phòng thủ và tấn công của họ để mở
rộng các khu vực kiểm soát (bất hợp pháp) tiến tới mở rộng ra toàn bộ Biển
Đông. Ngay cả khi dưới áp lực lớn Trung Quốc buộc phải chấp nhận quy trình giải
quyết xung đột đa phương ở Biển Đông thì vẫn có nguy cơ Bắc Kinh sẽ lại sử dụng
chiến thuật trì hoãn các cuộc thảo luận và tiếp tục tăng cường tổ chức các hoạt
động chiến lược và quân sự (bất hợp pháp) ở Biển Đông.
Chủ quyền biển đảo (tổng hợp)
Theo: Dân trí
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét