Căn cứ luật pháp quốc tế về quyền
thụ đắc lãnh thổ, lập luận “chủ quyền lịch sử” của Trung Quốc liệu có đứng vững
được không?
Bất chấp dư luận quốc tế, bất chấp những nỗ
lực ngoại giao của Việt Nam, Trung Quốc vẫn không rút giàn khoan Hải Dương 981
hạ đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Hơn
1 tháng nay, Trung Quốc ngang ngược sử dụng vũ lực tấn công các tàu thực thi
pháp luật của Việt Nam đang làm nhiệm vụ trên biển và tàu cá của ngư dân Việt
Nam.
Ngày 8/6, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại công bố
tài liệu biện minh cho yêu sách “chủ quyền” của nước này đối với quần đảo Hoàng
Sa, biện hộ cho hoạt động phi pháp của giàn khoan Hải Dương 981 trong thềm lục
địa của Việt Nam. Mặc dù lớn tiếng khẳng định chủ quyền với cái gọi là Tây Sa
(mà thực chất là quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) nhưng Trung Quốc không đưa ra
được chứng cứ thuyết phục nào. Giới lãnh đạo Trung Quốc cũng như các học giả
nước này luôn né tránh hoặc giải thích quanh co khi được yêu cầu làm rõ về chủ
quyền mà Trung Quốc đã tuyên bố. Trong khi đó, Việt Nam có đầy đủ những bằng
chứng pháp lý cũng như lịch sử để chứng minh chủ quyền đối với quần đảo Hoàng
Sa.
Để làm rõ những chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp
lý về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, Nhóm phóng viên Đài TNVN thường trú
khu vực Miền Trung thực hiện loạt bài “Hoàng Sa muôn đời của Việt Nam”.
Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với quần đảo
“Tây Sa”, tức quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, theo nguyên tắc “chủ quyền lịch
sử”. Lập luận của nước này là: Người Trung Quốc đã phát hiện ra các đảo này sớm
nhất và đã đặt tên cho chúng; Ngư dân Trung Quốc đã khai thác các đảo này từ
hàng nghìn năm nay. Điều đó chứng minh chủ quyền của Trung Quốc; Trung Quốc đã
thực hiện các hành động cai quản ở quần đảo này từ lâu đời…
Căn cứ nguyên tắc của luật pháp quốc tế về
quyền thụ đắc lãnh thổ cho đến nửa cuối thế kỷ XIX, lập luận này của Trung Quốc
liệu có đứng vững được không?
Từ cuối thế kỷ XV, luật quốc tế công nhận các
hành vi tượng trưng của việc sáp nhập lãnh thổ do quốc gia phát hiện ra thực
hiện như là danh nghĩa nguyên thủy của việc chiếm hữu. Nhưng phát hiện với ý
định sở hữu là chưa đủ để tạo ra quyền sở hữu đối với lãnh thổ vô chủ cho quốc
gia phát hiện. Yếu tố tinh thần này phải được củng cố bằng yếu tố vật chất qua
việc chiếm hữu thực sự, hiệu quả và quản lý hành chính trong một thời gian hợp
lý, mà độ dài phụ thuộc vào hai yêu cầu: một là, sự khẳng định quyền lực trong
vùng đó đối với không chỉ các chủ thể trong nước mà cả với các chủ thể ngoài
nước; hai là, không có tranh chấp từ phía quốc gia khác. Tóm lại, quốc gia đó
cần phải chứng minh được rằng, việc chiếm hữu là rõ ràng, hòa bình, liên tục và
không có tranh cãi.
|
Đáng chú ý, riêng quyền phát hiện không được
coi là đủ để đảm bảo quyền chiếm hữu xác định. Nó phải được củng cố bằng sự
chiếm cứ thực sự do Nhà nước thực hiện. Việc một cá nhân hoặc nhiều cá nhân là
công dân của một nước thực hiện hành vi chiếm hữu với tư cách cá nhân sẽ không
tạo ra một danh nghĩa chủ quyền cho Nhà nước đó.
Về danh nghĩa lịch sử hay quyền phát hiện, Sách trắng của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 30 tháng 1 năm 1980 với nhan đề Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa khẳng định: “Từ thời Hán Vũ đế trước Công lịch hai thế kỷ, nhân dân Trung Quốc đã bắt đầu đi lại trên biển Nam. Trải qua thực tiễn hàng hải lâu dài, nhân dân Trung Quốc đã lần lượt phát hiện các quần đảo Tây Sa và Nam Sa ”. Để chứng minh danh nghĩa lịch sử của họ, phía Trung Quốc đã dựa trên những cuốn sách chính như: Nam châu dị vật chí; Vũ kinh tổng yếu; Mộng Lương Lục; Đảo di chí lược; Đông Tây dương khảo; Độc sử phương dư kỷ yếu,…
Về danh nghĩa lịch sử hay quyền phát hiện, Sách trắng của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 30 tháng 1 năm 1980 với nhan đề Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa khẳng định: “Từ thời Hán Vũ đế trước Công lịch hai thế kỷ, nhân dân Trung Quốc đã bắt đầu đi lại trên biển Nam. Trải qua thực tiễn hàng hải lâu dài, nhân dân Trung Quốc đã lần lượt phát hiện các quần đảo Tây Sa và Nam Sa ”. Để chứng minh danh nghĩa lịch sử của họ, phía Trung Quốc đã dựa trên những cuốn sách chính như: Nam châu dị vật chí; Vũ kinh tổng yếu; Mộng Lương Lục; Đảo di chí lược; Đông Tây dương khảo; Độc sử phương dư kỷ yếu,…
Tuy nhiên, các sách này hoàn toàn không phải
là các chính sử do các cơ quan của Nhà nước Trung Quốc ấn hành. Không phải là
những phát hiện với ý định sở hữu, nguồn tài liệu này đều là các chuyên khảo,
tài liệu địa dư hoặc các sách hàng hải do các nhà địa lý hoặc nhà hàng hải chép
về các chuyến đi, mô tả về các lãnh thổ, thể hiện những nhận biết chung về địa
lý liên quan không chỉ tới lãnh thổ Trung Quốc mà còn là lãnh thổ của các nước
khác. Những tài liệu này không đưa ra cơ sở khoa học vững chắc để kết luận rằng
những địa điểm được đề cập trong các tác phẩm đó là Hoàng Sa mà Trung Quốc đã
sở hữu hơn 2000 năm.
|
Theo ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc
lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc, những tài liệu do phía Trung Quốc
đưa ra không có hiệu lực pháp lý: “Thời xưa, Trung Quốc có những nhà du hành,
hàng hải, những thương thuyền,… Họ đi giao thiệp về chuyện buôn bán ở phía Nam.
Trong quá trình đi, họ thấy những vùng đảo. Họ ghi chép lại. Đó là dạng sách du
ký, không phải tư liệu chính thống của chính quyền Trung Quốc. Để xác lập chủ
quyền, những điều được biên chép phải nằm trong chính sử, sách địa chí, Trung
Quốc gọi là phương chí, những phương tiện được Nhà nước thừa nhận.”
Mặt khác, sự tiếp xúc riêng rẽ của những cư dân Trung Quốc đối với Hoàng Sa liệu có đủ để thiết lập chủ quyền của nước này tại đó không?
Mặt khác, sự tiếp xúc riêng rẽ của những cư dân Trung Quốc đối với Hoàng Sa liệu có đủ để thiết lập chủ quyền của nước này tại đó không?
So sánh với các tiêu chuẩn quốc tế về thụ đắc
lãnh thổ, các ghi chép mà Trung Quốc viện dẫn không đủ chứng minh rằng quyền
phát hiện đã được xác lập. Một đảo hoặc một quần đảo có thể là đối tượng nhận
biết từ lâu đời của các nhà hàng hải, các ngư dân, các nhà địa lý,… nhưng chúng
vẫn chỉ được coi là lãnh thổ vô chủ một khi quốc gia của họ chưa tiến hành một
hành động Nhà nước nào tại đó. Các hoạt động tư nhân của các ngư dân Trung Quốc
không thể mang lại hiệu lực pháp lý của “quyền phát hiện” và nó không thể được
đánh đồng với quyền chiếm hữu.
Ông Hồ Bạch Thảo, nhà nghiên cứu về Biển Đông
người Mỹ, gốc Việt, một chuyên gia cổ sử chỉ rõ, việc “chiếm cứ” này thiếu hẳn
ý định của Nhà nước sáp nhập các đảo đó vào lãnh thổ quốc gia: “Tôi nghiên cứu
tất cả các sử liệu thời Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh cho đến nhà Thanh thì
chưa bao giờ thấy các nhà vua Trung Quốc xác nhận chỗ đó là lãnh thổ Trung
Quốc. Chuyện ngư dân Trung Quốc khai thác cá, đánh bắt hải sản có thể xảy ra
bất cứ thời nào. Chuyện đó không thể là căn cứ để khẳng định chủ quyền được.
Chủ quyền phải do quốc gia thiết lập.”
Mặt khác, các thủy thủ và ngư dân Trung Quốc
không phải là những người duy nhất qua lại các quần đảo. Biển Đông từ lâu đời
đã có thuyền bè của người Ấn Độ, Ả Rập, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp và nhiều
nước khác lai vãng tới.
Có thể các hoạt động của ngư dân sẽ kéo theo
sự chú ý và ý định của Nhà nước trên lãnh thổ vô chủ. Tuy nhiên, yếu tố ý chí
này không đủ khi còn thiếu yếu tố vật chất của các hoạt động Nhà nước trên thực
địa.
Để chứng minh sự quản lý của Trung Quốc trên
các đảo này từ hàng nghìn năm, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra ba sự kiện:
Sự kiện thứ nhất: Từ thời nhà Tống (960-1127),
hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra quân sự đến vùng biển quần đảo Hoàng Sa. Sự
khẳng định này dựa trên cơ sở đoạn văn trích từ Vũ Kinh tổng yếu.
Về vấn đề này, Sách trắng năm 1981 của Việt
Nam chỉ rõ, đoạn trích từ Vũ Kinh tổng yếu là sự kết hợp từ ba đoạn riêng rẽ
khác nhau trong một đoạn sau lời tựa. Theo đó, trong đoạn trích này, có đoạn
nêu Bắc Tống “lệnh cho quân nhà vua đi trấn giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần
biển ở Quảng Nam”, “đóng tàu chiến đao ngư”, có đoạn mô tả vị trí địa lý của
đồn binh, đoạn khác tả lộ trình đi từ cảng Quảng Nam tới tận Ấn Độ Dương. Đó là
hành trình khảo sát địa lý hơn là tuần tra lãnh thổ của Trung Quốc. Đó không thể
là bằng chứng đầy đủ để nói rằng, ngay từ thời nhà Tống, quần đảo Hoàng Sa đã
thuộc quyền quản lý của Trung Quốc.
Sự kiện thứ hai, đó là vào thế kỷ thứ XIII,
Hoàng đế nhà Nguyên đã ra lệnh cho một nhà thiên văn học nổi tiếng là Quách Tử
Kính đo đạc thiên văn, mà một trong những điểm quan trắc trong đó được thực
hiện từ Hoàng Sa.
Thực ra, theo Nguyên Sử, bộ sử chính thức của
nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn được ghi chép như sau: “Việc đo bóng mặt trời
bốn biển ở hai mươi bảy nơi. Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía
Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc.”
|
Nguyên Sử chép rõ tên 27 nơi đo đạc thiên văn,
trong đó có những địa danh hoàn toàn không thuộc cương vực Trung Quốc như Cao
Ly (Triều Tiên), Thiết Lặc (Siberia). Các quan trắc thiên văn này có phần tiến
hành trên lãnh thổ Trung Quốc, có phần nằm ngoài cương vực Trung Quốc. Do đó,
nó không thể tạo ra bằng chứng xác đáng cho chủ quyền Trung Quốc. Hơn nữa, một
hành động nghiên cứu khoa học chưa đủ để tạo nên một danh nghĩa chủ quyền.
Sự kiện thứ ba, người Trung Quốc đưa ra tài
liệu về một cuộc tuần biển được tổ chức trong khoảng các năm 1710-1712 dưới
triều nhà Thanh. Ngô Thăng, Phó tướng thủy sư Quảng Đông chỉ huy chuyến đi này.
Nghiên cứu nghiêm túc cho thấy, những địa danh
nêu trong đoạn trích này đều nằm xung quanh đảo Hải Nam. Quỳnh Nhai ở phía Bắc
đảo Hải Nam. Đồng Cổ ở mỏm Đông Bắc đảo Hải Nam. Thất Châu Dương là vùng biển
có bảy hòn đảo gọi là Thất Châu, nằm ở phía Đông đảo Hải Nam. Tứ Canh Sa là bãi
cát ở phía Tây đảo Hải Nam. Rõ ràng, dõi theo hành trình này trên bản đồ, dễ
dàng nhận thấy đó là một con đường đi vòng quanh đảo Hải Nam.
TS. Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Ban Biên
giới của Chính phủ, nay là Ủy ban Biên giới Quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao cho
rằng, các văn kiện mà phía Trung Quốc trích dẫn không thể hiện được đã có việc
kiểm soát quần đảo. Nó thiếu các yếu tố mà luật quốc tế thời đó đòi hỏi.
“Trung Quốc dựa vào cái gọi là chủ quyền lịch
sử, danh nghĩa lịch sử. Căn cứ vào các sự kiện, các dữ liệu trong lịch sử để
chứng minh chủ quyền là hết sức mơ hồ. Lịch sử có thể giúp tìm ra các bằng
chứng có giá trị pháp lý để chứng minh chủ quyền, chứ không có nghĩa dùng các
sự kiện được ghi trong lịch sử để chứng minh chủ quyền. Cho nên người ta căn cứ
vào nguyên tắc thực sự: Đó là việc chiếm hữu với tư cách Nhà nước và thực thi
chủ quyền đó rõ ràng, hoà bình, liên tục và có hiệu quả. Trung Quốc không có
điều đấy”, TS Trần Công Trục phân tích.
Ông Carlyle A. Thayer, Giáo sư Học viên Quốc
phòng Australia bình luận: “Trung Quốc đưa ra đòi hỏi chủ quyền dựa trên quyền
lịch sử không được xác định rõ. Đúng là các ngư dân Trung Quốc đã đến khai
thác, Trung Quốc đã vẽ các quần đảo này lên bản đồ. Tuy nhiên, theo luật pháp
quốc tế, việc phát hiện và đặt tên không có nghĩa là được sở hữu. Nếu theo cách
suy luận của Trung Quốc thì liệu Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha có thể ra yêu sách
với toàn bộ Đại Tây Dương hay không vì họ đã phát hiện ra nó từ thế kỷ XVI? Câu
trả lời tất nhiên là không! Họ chỉ đi thuyền qua và phát hiện ra nó, chứ không
sở hữu nó. Điều Trung Quốc nói rất ngang ngược.”
Các viện dẫn của Trung Quốc còn mâu thuẫn với
chính các nguồn tư liệu của nước này. Có nhiều tài liệu địa lý cổ mô tả và phân
định rõ lãnh thổ của Thiên triều kết thúc ở điểm cực Nam của đảo Hải Nam, như:
Quỳnh Châu phủ chí (1731), Hoàng Triều di tông tâm lĩnh (1894), Đại Thanh di đồ
(1905),…; hay các sách, bản đồ cổ khác của người Trung Quốc. Cụ thể, điểm mút
phía nam của lãnh thổ Trung Quốc nằm ở Nhai Châu, thuộc phủ Quỳnh Châu, tỉnh
Quảng Đông, tại vĩ độ 18013’ Nam. Sách Trung Quốc Địa lý Giáo khoa thư, Thượng
Vụ Ấn Thư quán, Thượng Hải năm 1906 xuất bản cũng khẳng định: “Phía Nam bắt đầu
là vĩ độ 18013’ Nam lấy bờ biển Châu Nhai đảo Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) làm
điểm mút”.
Tháng 5 năm 2014, Việt Nam đã tiếp nhận và
công bố bộ Atlas thế giới Bruxelles – 1827. Bộ Atlas này gồm 6 tập do nhà Địa
lý học Philippe Vandemaelen, người sáng lập Viện Địa lý Hoàng gia Bỉ, xuất bản
năm 1827. Theo đó, Việt Nam được giới thiệu trong các tấm bản đồ số 97, 105,
106, 110. Tấm bản đồ số 106 vẽ đường bờ biển miền Trung từ vĩ tuyến 12 tới vĩ
tuyến 16 (thuộc khu vực Trung kỳ, Đàng Trong của Việt Nam lúc bấy giờ). Trong
tấm bản đồ này, quần đảo Hoàng Sa được vẽ rất cụ thể, chi tiết và chính xác. Nó
được đặt trong mối tương quan với các đảo và khu vực ven bờ như Lý Sơn, Cù Lao
Chàm, Cù Lao Ré, Quy Nhơn, Nha Trang. Đáng chú ý, trong phần chú thích trên tấm
bản đồ 106, Philippe Vandermaelen ghi rõ “Đế chế An Nam”, thể hiện rất rõ chủ
quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
Nhà sử học Dương Trung Quốc, Tổng Thư ký Hội Khoa
học Lịch sử Việt Nam cho rằng, bản đồ cổ chính là những yếu tố khách quan có từ
xa xưa đã phản ánh đúng thực tế lịch sử: “Bản đồ là hết sức khách quan của
những người phương Tây hoặc từ những tác giả từ rất xa xưa khi mà chưa nảy sinh
những vấn đề tranh chấp của ngày hôm nay. Tất cả những yếu tố khách quan đó
càng chứng minh được, chủ quyền của chúng ta đã được xác lập từ xưa, cộng với
những nguồn sử liệu trong nước, đặc biệt là những sử liệu thể hiện việc thực
thi quyền quản lý liên tục, hòa bình, kể cả trách nhiệm đối với hàng hải thế
giới. Những yếu tố xa xưa ấy lại là những giá trị rất thời sự cho ngày hôm
nay.”
GS. TS Đỗ Tiến Sâm, nguyên Viện trưởng Viện
Nghiên cứu Trung Quốc, Viện Khoa học xã hội Việt Nam cho rằng, lập luận của
Trung Quốc trên cơ sở quyền phát hiện và sự quản lý là không đúng sự thật:
“Những yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa với những chứng cứ
lịch sử mà họ đưa ra hoàn toàn không đúng đắn. Những tài liệu, sử sách mà Trung
Quốc viết đều không đề cập đến quần đảo Hoàng Sa. Có thể nói, chứng cứ lịch sử
mà Trung Quốc đưa ra là không đúng sự thật.”
Rõ ràng, lập luận rằng, người Trung Quốc đã
phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý quần đảo Hoàng Sa từ cách đây 2000
năm là không thể đứng vững trước ánh sáng của Luật pháp quốc tế và thực tiễn
hiện nay.
Những lời khẳng định rườm rà trong nhiều sách
hay bài viết của Trung Quốc khẳng định một danh nghĩa lịch sử lâu đời của nước
này đối với quần đảo Hoàng Sa đều không có giá trị.
Trong khi đó, các tài liệu của nước ta cho
thấy, Việt Nam không chỉ hiểu biết từ lâu đời về Hoàng Sa mà đã chuyển hóa sự
hiểu biết này thành việc chiếm hữu thực sự ít nhất từ thế kỷ XVII. Nội dung này
sẽ được đề cập trong bài 2: “Việt Nam -
Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền tại Hoàng Sa”.
Chủ quyền biển đảo (tổng hợp)
Theo: VOV
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét