Vì sao Trung
Quốc lại chọn Việt nam để thể hiện sự hung hăng, bạo ngược của mình? Ngoài lý
do “chuyển lửa” như đã nói, còn lý do nào khác?
Đặng Tiểu Bình nói “phải dạy cho Việt Nam một
bài học”. Ngay sau đó là cuộc xâm lược đẫm máu mà quân đội Trung Quốc gây ra
khắp miền biên giới phía bắc Việt Nam đầu năm 1979. Hậu quả của cuộc chiến là
những nghĩa trang bên phía Trung Quốc như Bình Biên, Mã Quan, chỉ một
nghĩa trang đã có gần một vạn ngôi mộ binh lính Trung Quốc chết trận.
Còn ở Việt Nam, các nghĩa trang liệt sĩ cũng
có ở tất cả các tỉnh biên giới. Sự khác nhau giữa các nghĩa trang là người lính
Việt chiến đấu bảo vệ tổ quốc mình, hy sinh trên mảnh đất quê hương mình còn
phần lớn người lính Trung Quốc phải nhận cái chết tha hương mà không biết
vì sao, cho cái gì?
Cuộc chiến mà Đặng Tiểu Bình phát động chỉ là
sự kế thừa tư tưởng bành trướng, đại Hán đã ngấm vào máu giới lãnh đạo Bắc Kinh
suốt chiều dài lịch sử. Khi kết nối các đoạn thành cổ có từ thời Xuân Thu –
Chiến Quốc xây dựng nên Vạn Lý Trường Thành, Tần Thủy Hoàng xem đó như là biên
giới quốc gia để ngăn chặn các cuộc tiến công từ phương bắc.
|
Cho đến nay Vạn lý trường thành đã nằm sâu
trong lãnh thổ Trung Quốc, không gian sống của người Trung Quốc càng rộng mở
thì không gian sống của các dân tộc khác càng thu hẹp. Dù thua trong cuộc chiến
với người Mông Cổ, người Mãn Châu nhưng người Hán lại chiến thắng trong công
cuộc mở rộng lãnh thổ, một phần đất Mông Cổ, Mãn Châu đã thành đất Trung Quốc,
không một quốc gia, dân tộc nào trên thế giới làm được điều này.
Hai phương thức mở rộng lãnh thổ mà người
Trung Quốc sử dụng là chiến tranh và di dân tự do. Có thể nói số cuộc chiến mà
Bắc Kinh phát động sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 cũng chẳng kém bao nhiêu
so với số cuộc chiến mà Mỹ tiến hành, có chăng chỉ là thời gian và quy mô
nhỏ hơn mà thôi (năm 1962 Trung Quốc gây chiến với Ấn Độ, năm 1969 gây
chiến với Nga, 1979, 1988 xâm lược Việt Nam). Ngày nay, bằng các hợp đồng kinh
tế, dòng người lao động Trung Quốc vẫn đang âm thầm len lỏi đến các quốc gia
khác gây không ít hệ lụy cho chính quyền và cư dân sở tại.
Câu hỏi đặt ra là tại sao giới cầm quyền Bắc
Kinh càng ngày càng tỏ ra hung hăng như vậy? Phải chăng vì hiện nay họ đã quá
mạnh không cần phải che đậy tham vọng, hay là quyền lực mềm của họ đã thu phục
được toàn bộ dân Trung Quốc và phần lớn nhân loại?
Trả lời câu hỏi này cần nhìn sâu vào các mâu
thuẫn nội tại của Trung Quốc.
Mâu thuẫn nội bộ tầng lớp lãnh đạo
Cuộc chiến giành quyền lực tại Trung Quốc luôn
là cuộc chiến đẫm máu ở tầng lớp chóp bu, thời phong kiến chuyện mẹ hại con,
cháu hại cô, con chiếm ngôi vua của cha… xảy ra như cơm bữa. Cuộc “cách
mạng văn hóa” những năm 60 thế kỷ trước tại Trung Quốc đã tiêu diệt hàng loạt
“khai quốc công thần”, từ các nguyên soái đến chủ tịch nước và những người có
tư tưởng chống đối.
Kể từ khi được lựa chọn làm người kế vị, ông
Tập Cận Bình đã thâu tóm các chức vụ quan trọng nhất trong Đảng cộng sản và
chính quyền Trung Quốc. Bằng cách bổ nhiệm hầu hết tư lệnh các đại quân khu,
các thượng tướng (chức vụ cao nhất của quân đội Trung Quốc hiện tại) ông Tập
đang chuẩn bị hậu phương cho những trận đánh khó khăn trước mắt. Với cái cớ
chống tham nhũng, hàng loạt Ủy viên Bộ chính trị Đảng cộng sản Trung
Quốc như Bạc Hy lai, Chu Vĩnh Khang, Từ Tài Hậu… đã bị thanh trừng.
Tham nhũng không phải là chuyện lạ ở Trung
Quốc vì vậy nó chỉ là cái cớ cũng như cái cớ người ta đã tạo ra để phát động
cuộc “cách mạng văn hóa” mà thôi. Mâu thuẫn nội bộ giới chóp bu đang trở thành
nguy cơ đối với những người đang nắm quyền lãnh đạo Trung Quốc. Không có gì đảm
bảo rằng những ủy viên Bộ chính trị bị thanh trừng lại cam tâm ngồi sau song
sắt đến cuối đời. Chuyện Đặng Tiểu Bình bị khai trừ đảng, hai lần bị tước toàn
bộ chức vụ nhưng rồi vẫn quay lại chiểm vị trí độc tôn cho thấy ông Tập còn
phải chinh chiến dài dài với các “đồng chí” của mình.
Để đánh lạc hướng sự chú ý của người dân, để
có cớ tăng chi tiêu quốc phòng, giới cầm quyền Bắc Kinh đang sử dụng chiến
thuật cũ rích: đẩy mâu thuẫn nội bộ ra ngoài biên giới Trung Quốc.
Khi “cách mạng văn hóa” gây oán hận khắp đất
nước vào những năm 60 của thế kỷ trước, Trung Quốc liền gây chiến với Ấn Độ
(1962) sau đó là Liên Xô (1969). Trở lại chính trường sau nhiều năm long
đong, vừa để ủng hộ bè lũ diệt chúng Pôn Pốt ở Campuchia, vừa để củng cố thế
lực nhằm tạo dựng lòng tin với đối tác Mỹ, Đặng Tiểu Bình gây chiến với Việt
Nam năm 1979. Có thể kể ra hàng loạt dẫn chứng về thủ đoạn “chuyển lửa” ra
ngoài mà giới cầm quyền Trung Quốc đã và đang thực hiện.
Mâu thuẫn sắc tộc, vùng miền
Những vụ bạo loạn sắc tộc, sự chống đối của
người dân Tây Tạng, Tân Cương không chỉ bó hẹp trong phạm vi các vùng đất này
mà đã lan rộng ra nhiều nơi, kể cả Thiên An Môn. Ngày 16/6 tòa án Trung
Quốc đã kết án tử hình 3 trong số 8 người tham gia vào vụ nổ bom xe tại
nơi được xem là thánh địa này.
Bên cạnh mâu thuẫn sắc tộc là mâu thuẫn vùng
miền, sự phát triển về kinh tế của vùng duyên hải phía đông tạo nên một làn
sóng di cư lao động từ các tỉnh nằm sâu trong lục địa, nó cũng tạo nên sự lộn
xộn khi dòng người này trở về quê hương trong các dịp lễ tết. Bảo đảm lương
thực cho 1.3 tỷ người khi mà lớp thanh niên đang rời bỏ ruộng đồng là một bài
toán khó giải, phải chăng chính vì thế người Trung Quốc ngày nay không từ
thủ đoạn nào để tạo nên các loại lương thực, thực phẩm dù chúng nguy hại tới
tính mạng người dùng? Và phải chăng cũng chính vì mâu thuẫn vùng miền mà những
người nông dân Trung Quốc sống ở thượng nguồn đã vứt hàng vạn con lợn chết bệnh
xuống sông Hoàng Phố cho trôi về thành phố giàu có Thượng Hải?
Mâu thuẫn giàu nghèo
Trong khi một số người Trung Quốc trở thành tỷ
phú tầm cỡ thế giới thì đa số nông dân chỉ chuyển từ mức rất nghèo sang mức
nghèo. Cháo gạo và ngô luộc là món ăn của người dân mà du khách thường thấy
trong chuyến du ngoạn Thạch Lâm thuộc tỉnh Vân Nam.
Sự kiện người dân Hồng Công, Ma Cao biểu tình
đòi nhà cầm quyền Bắc Kinh không can thiệp vào quyền lựa chọn lãnh đạo các đặc
khu này cho thấy những người dân nơi đây, vốn có mức sống cao hơn đại lục đã
không mấy tin tưởng vào chính quyền trung ương. Các cuộc biểu tình đòi tự quyết
có thể là dấu hiệu cho thấy trào lưu ly khai, thoát ly khỏi chính quyền Bắc
Kinh đang dần rõ nét. Sẽ không có gì bất ngờ nếu một ngày nào đó Tân Cương, Tây
Tạng, Đài Loan, Hồng Công, Ma Cao… tuyên bố độc lập.
Trên bình diện quốc tế, Trung Quốc có thể có
vài nước tạm coi là thân thiện như Campuchia, Malaysia nhưng thực sự họ không
có bạn bè, càng không có đồng minh. Bắc Triều Tiên, quốc gia duy nhất được
Trung Quốc “bảo trợ” giờ đây cũng không còn mặn mà với người “đồng chí” láng
giếng nữa.
Trung Quốc giống như người khổng lồ cô độc
từng bị tổn thương tâm lý, ấy là khi người Mông Cổ đô hộ lập nên nhà Nguyên,
người Mãn đô hộ lập nên triều Thanh, liên quân phương tây đốt phá thành Bắc
Kinh đầu thế kỷ 19 và Nhật Bản chiếm vùng Mãn Châu trong thế chiến 2.
Trút nỗi tổn thương của mình lên Nga, Nhật,
các nước phương tây là không thể nên giới lãnh đạo mới ở Trung Quốc muốn trút
nó sang các quốc gia nhỏ bé hơn. Đó mới chỉ là một trong những nguyên nhân mang
tính lịch sử, nguyên nhân trực tiếp là Trung Quốc muốn chuyển ngọn lửa phản
kháng trong nước, chuyển mâu thuẫn nội tại của mình xuống biển Đông, một hành
động vừa ngông cuồng vừa thiếu văn hóa. Xoa dịu nỗi đau của mình bằng cách gây
ra nỗi đau cho người khác đâu phải là cách hành xử của những con người có trách
nhiệm, của một quốc gia luôn khoe khoang thiện chí và hòa hiếu, luôn muốn
truyền bá cho nhân loại các tư tưởng của đạo Khổng?
Vì sao
Trung Quốc lại chọn Việt nam để thể hiện sự hung hăng, bạo ngược của mình?
Ngoài lý do “chuyển lửa” như đã nói, còn lý do nào khác?
Trong quá khứ, Trung Quốc từng xem Việt Nam
như lá bài để mặc cả với Mỹ, lợi dụng Việt Nam để thử nghiệm các chính sách đối
ngoại, đo lường phản ứng của thế giới. Đến nay về cơ bản chính sách đó
không hề thay đổi. Điều khác biệt là Trung Quốc đang khuấy đảo biển Đông, xâm
phạm chủ quyền của Việt Nam với mục đích thử phản ứng không chỉ của Mỹ mà còn
của Nhật, Nga, Liên minh châu Âu, nhất là phản ứng của các nước Asean.
Có thể Trung Quốc đã đạt được mục đích khi
nhận thấy phản ứng yếu ớt từ Liên minh châu Âu, từ một số nước Asean như
Campuchia, Malaysia. Ngay cả Nga vốn rất thân thiết với Việt Nam cũng giữ thái
độ phản ứng thận trọng trước hành động của Trung Quốc. Tuy nhiên Bắc kinh quên
đi một điều, rằng bằng cách hung hăng tuyên bố chủ quyền, hình ảnh một nước
Trung Quốc thân thiện hòa nhã đang trở nên méo mó trong con mắt cộng đồng quốc
tế. Trong thế giới phẳng, không có góc khuất cho lời nói dối ngự trị lâu dài,
tuy vậy không phải ai cũng có đủ thông tin và sự tỉnh táo để nhận diện kẻ lừa
đảo.
Chọn Việt Nam để thể hiện sức mạnh cơ bắp vì
chính Trung Quốc cũng chưa dám tin vào năng lực của mình. Đưa quân đi xa biên
giới, nhất là ra biển là điểm yếu chết người của quân đội Trung Quốc. Xung đột
với Nhật Bản hay Philipine có thể dẫn tới đối đầu với Mỹ, đó là điều Bắc Kinh
không mong muốn. Chọn xâm lược Việt Nam, họ hy vọng sức mạnh lấn át về hải,
không quân sẽ giúp họ giành chiến thắng. Bên cạnh đó giới hoạch định chính sách
Trung Nam Hải còn có một ảo tưởng mơ hồ về việc người dân Việt Nam đang có
những bức xúc về tình trạng xã hội hiện nay. Họ quên đi điều mà các triều đại
từ Hán, Đường đến thời Đặng Tiểu Bình đã nếm trải, ấy là khi bị nguy cơ xâm
lược, người Việt sẽ vì tổ quốc mà gác lại tất cả hiềm khích, chuyện Quốc công
tiết chế Trần Hưng Đạo tắm cho Thượng tướng Trần Quang Khải khi nước Việt chống
quân Nguyên xâm lược lẽ nào người Trung Quốc không biết?
Tình hình địa chính trị của thế kỷ 21 không có
chỗ cho khái niệm “anh em, đồng chí”, mọi quan hệ đều phải sòng phẳng. Khái
niệm “viện trợ” mà chúng ta quen dùng thường tạo cảm giác đánh lừa người nghe,
đó chỉ là chuyện vay trả, lãi ít hay lãi nhiều chứ không phải là cho không. Đã
đến lúc cần phải bỏ thuật ngữ “viện trợ phát triển” mà thay bằng khái niệm “vay
lãi xuất thấp” trừ những khoản “viện trợ không hoàn lại”.
Sự phụ thuộc về kinh tế dẫn tới sự phụ thuộc
về văn hóa, hậu quả của hai sự phụ thuộc này là đánh mất chủ quyền quốc gia, đó
không còn là nguy cơ mà sự thật hiển hiện trước mắt. Một nước Việt giàu tài
nguyên, nước không nhỏ, dân không ít làm sao lại luôn bị ngoại bang xâm lược?
Lý do thật đơn giản, vì nước ta nghèo. Nhưng tại sao với tài nguyên thiên nhiên
như vậy, với con người thông minh như vậy mà nước lại nghèo? Câu trả lời cũng
thật đơn giản, chúng ta còn phải chờ xuất hiện những con người như Trần Hưng
Đạo, Lý Thường Kiệt…
Năm 1954, cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ bỏ
lời khuyên đánh nhanh, thắng nhanh chuyển sang đánh chắc, tiến chắc đã tạo nên
trận Điện Biên chấn động địa cầu. Hòa bình lập lại, nghe lời khuyên của Trung
Quốc về cải cách ruộng đất, chúng ta đã mắc sai lầm nghiêm trọng. Bác bỏ ý kiến
của Trung Quốc, năm 1975 chúng ta đã giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau khi bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc nghe những lời ngọt lịm về
16 chữ, về 4 tốt, chúng ta đã làm cho đất nước lạc hậu nhiều thập kỷ so với các
nước xung quanh. Tất cả những sự thật này người Việt đều nhận thấy, câu hỏi là
tại sao chúng ta lại không dám một lần nữa khước từ “thiện chí” của người “đồng
chí thâm nho” này để cho đất nước cất cánh?
Không bao giờ Bắc Kinh muốn nhìn thấy một nước
Việt hùng cường án ngữ ở phương nam, họ càng không muốn con đường trở thành
cường quốc biển của họ gặp trở ngại. Đó là lý do mà họ muốn nước Việt mãi nghèo
nàn và lạc hậu.
Giờ đây thay thế cho “chủ nghĩa quốc tế”
phải là một quan hệ quốc gia sòng phẳng, có vay, có trả. Lời nói biết ơn
mà chúng ta quen dành cho những kẻ đã giết hại hàng vạn đồng bào, chiến sĩ
chúng ta năm 1979 cần phải được đưa ra đúng lúc, đúng chỗ. Cần phải minh định
ai mang ơn ai trong cuộc đối đầu lịch sử bẻ gãy tham vọng của Mỹ đối với các
nước XHCN hồi giữa thế kỷ 20.
Trong họa có phúc, biển Đông đang là phép thử
cho tham vọng của Bắc Kinh, biển Đông cũng là phép thử cho lòng yêu nước, sự
đoàn kết và dũng khí của người Việt. Đây là thời điểm lịch sử để chúng ta tự
hoàn thiện mình, tiến hóa là con đường tất yếu để sự vật phát triển, chậm tiến
hóa hay không muốn tiến hóa chắc chắn sẽ bị lịch sử đào thải.
Trong khi Trung Quốc từ hình dáng con gà trống
đang hy vọng biến thành con voi với cài vòi là đường mười đoạn liếm hết biển
Đông thì Việt Nam không thể mãi là hình chữ S mềm mại uốn lượn. Việt Nam phải
trở thành hổ mang chúa với cái đuôi ở phương nam và cái đầu ngẩng cao ở phương
bắc, nọc độc của hổ mang không phải chỉ để cắn khi bị tấn công mà còn có thể
phun thẳng vào mắt kẻ thù nếu chúng liều lĩnh xông tới.
Chủ quyền biển đảo (tổng hợp)
Theo:giaoduc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét