Hồ sơ ngoại giao được giải mật
của Mỹ cung cấp một góc nhìn mới về Hải chiến Hoàng Sa cách đây tròn
40 năm.
Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai (trái) đãi tiệc Tổng thống Mỹ Richard Nixon (giữa) trong chuyến thăm lịch sử năm 1972 |
Bối cảnh quốc tế
Hải chiến Hoàng Sa cần phải đặt trong bối cảnh những rạn nứt quan hệ Liên Xô -
Trung Quốc. Quan hệ Xô - Trung trong thập niên 1960 bị phủ bóng bởi những bất
đồng sâu sắc về tình trạng của khu vực Ngoại Mông cũng như nhiều tranh chấp
lãnh thổ dọc biên giới sau vụ “đoạn giao” năm 1960.
Cuộc đụng độ ở biên giới năm 1969 mang lại cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung
Quốc (PLA) niềm tin rằng họ có thể chống trả Hồng quân Liên Xô. Từ đó, Trung
Quốc bắt đầu thực hiện sáng kiến đối ngoại mới bằng cách thúc đẩy quan hệ hữu
nghị với Mỹ, với cao trào là chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Richard
Nixon vào tháng 2.1972. Sau chuyến thăm của Nixon, Chủ tịch Trung Quốc Mao
Trạch Đông đã ra lệnh tiến hành chương trình hiện đại hóa quân đội lớn, kêu gọi
phát triển hải quân viễn dương, cũng như tiếp tục mở rộng việc phòng thủ bờ biển.
Điều này mang lại cho hải quân Trung Quốc phương tiện cần thiết để tiến xuống
biển Đông. Trong khi đó, Mỹ đã rút quân khỏi miền Nam Việt Nam theo hiệp định
Paris ký kết tháng 1.1973.
Trong bối cảnh cuộc chiến Việt Nam sắp đi vào hồi kết, Bắc Kinh đã quyết định
đánh chiếm Hoàng Sa ngay trước khi Việt Nam thống nhất. Việc Bắc Kinh lên kế
hoạch kỹ càng cho việc tiến chiếm Hoàng Sa cũng được ghi nhận trong một bức
điện tín được Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin gửi về cho Bộ Ngoại giao Mỹ
vào ngày 20.1.1974, một ngày sau khi hải chiến nổ ra: “Rõ ràng, Trung Quốc
không đơn giản tăng viện lực lượng ở Hoàng Sa mà đang tiến hành một kế hoạch
chuẩn bị kỹ lưỡng nhằm chiếm quần đảo”. Chính vì việc này, ông Martin đã đề
nghị Washington hãy cân nhắc gây sức ép lên Bắc Kinh và đẩy mạnh các bước đi
trong lĩnh vực ngoại giao. Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Mỹ khi đó có vẻ như bận rộn
bảo vệ mối quan hệ với Trung Quốc hơn là với một đồng minh hết thời.
Thái độ của Mỹ
Tháng
11.1973, Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger công du Trung Quốc và có các cuộc mật
đàm với Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Trước đó, vào tháng 2.1973, hai nước
đã tuyên bố thiết lập văn phòng liên lạc. Khi tình hình biển Đông căng thẳng
vào tháng 12.1973, Đại sứ quán Mỹ tại Singapore đã gửi điện tín cho Bộ Ngoại
giao Mỹ hỏi về lập trường của chính phủ trong các tranh chấp tại khu vực. Bộ
Ngoại giao Mỹ đã gửi điện tín cho các đại sứ quán và văn phòng liên lạc ở VNCH,
Singapore, Philippines, Đài Loan và Trung Quốc rằng lập trường của Washington là
không đứng về bên nào trong các tuyên bố chủ quyền tại đây. Quan điểm này được
tái xác nhận trong các cuộc họp ngày 25.1.1974 và 31.1.1974 của nhóm hành động
đặc biệt do Kissinger đứng đầu. Theo đó, phía Mỹ sẽ tránh xa những tranh chấp ở
Hoàng Sa và Trường Sa.
Trước đó, ngày 11.1.1974, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã đơn phương tuyên bố chủ
quyền với quần đảo Hoàng Sa. Ngay sau đó, ngày 12.1, phát ngôn viên Bộ Ngoại
giao VNCH đã cực lực bác bỏ những tuyên bố vô căn cứ của Trung Quốc. Ngày 16.1,
Ngoại trưởng Vương Văn Bắc của VNCH ra tuyên bố tố cáo Trung Quốc cử người và
tàu bè đến vùng biển xung quanh các đảo Hữu Nhật, Quang Hòa và Duy Mộng, vi
phạm trắng trợn chủ quyền của VNCH. Sau khi Hải chiến Hoàng Sa nổ ra vào ngày
19.1, Đại sứ Mỹ Martin ngày 20.1 đã gửi điện tín báo cáo về Bộ Ngoại giao cho
biết họ đã tức tốc đề nghị các quan chức VNCH hãy kiềm chế, tránh hành động leo
thang và khẳng định quân đội Mỹ sẽ không hề can thiệp trong bất kỳ tình huống
nào. Bộ Ngoại giao Mỹ trước đó thông báo cho các đại sứ quán của Mỹ rằng họ đã
yêu cầu Bộ Quốc phòng chỉ thị cho hải quân tránh xa khu vực.
Trong cuộc
gặp với quyền trưởng Văn phòng Liên lạc Trung Quốc ở Washington Hàn Tự ngày
23.1.1974, Kissinger đã đề nghị Bắc Kinh xem xét trường hợp của nhân viên người
Mỹ Gerald Emil Kosh bị bắt giữ trong trận chiến và khẳng định Mỹ không ủng hộ
tuyên bố chủ quyền của VNCH với Hoàng Sa.
“Chính quyền Nam Việt Nam đang gửi một số kiến nghị đến các tổ chức quốc tế như
SEATO cũng như Liên Hiệp Quốc. Chúng tôi muốn các ông biết rằng chúng tôi không
liên kết với những kiến nghị đó”, Kissinger phát biểu, theo một biên bản được
giải mật của Bộ Ngoại giao Mỹ. (Còn tiếp)
Chủ quyền biển đảo (tổng hợp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét