Độc chiếm Biển Đông là tham vọng “thầm kín” của Trung Quốc.
Tuy nhiên, là một nước lớn có GDP đứng thứ 2 thế giới, Trung Quốc còn muốn có
vai trò lãnh đạo khu vực và cạnh tranh vị thế toàn cầu với Mỹ, nên Trung Quốc
“đang thực hiện kiềm chế”.
Kỳ 2: Giải pháp cần linh hoạt
Theo giới quan sát, hiện nay tại Trung Quốc cũng đang có
nhiều cuộc tranh luận sôi nổi làm thế nào để theo đuổi các lợi ích quốc gia
(cốt lõi) của Trung Quốc ở Biển Đông một cách tốt nhất và phần lớn đều không
hài lòng với nguyên trạng hiện nay, nên cần phải tạo thành “vùng sở hữu chung”.
Thực chất của quan điểm này là biến sở hữu của nước khác thành “sở hữu chung”.
Quan điểm của một số học giả Trung Quốc cho rằng, Trung Quốc
đang thực hiện “kiềm chế”, một số khác lại nêu ra các yêu sách khác nhau. “Chủ
động khai thác các nguồn tài nguyên ở những vùng nước tranh chấp” là một xu
hướng đang được cổ vũ (ngoại trừ một số nhà nghiên cứu có trách nhiệm như Giáo
sư Lý Lệnh Hoa là khuyến cáo Chính phủ Trung Quốc nên tuân thủ theo luật pháp
quốc tế) hiện cũng xuất hiện luồng tư tưởng mới cho rằng, “quân sự hóa chỉ làm
tồi tệ thêm các cuộc tranh chấp, cải thiện và làm mạnh mẽ thêm các khả năng
thực thi dân sự của Trung Quốc mới là giải pháp bảo vệ tốt nhất các lợi ích của
họ.
Tàu Trung Quốc dùng vòi rồng tấn công
tàu Cảnh sát biển của Việt Nam tại khu vực gần giàn khoan Hải
Dương 981
|
Vì thế, việc đưa giàn khoan Hải Dương 981 hoạt động trong
vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam rất có thể Trung Quốc đang
triển khai theo hướng này. Giới chức Trung Quốc cho đây là cách tiếp cận mà họ
gọi là “đôi bên cùng có lợi”. Và theo họ “có như vậy mới có thể điều tiết được
tất cả, điểm khởi đầu tốt cho giải quyết tranh chấp trên Biển Đông sẽ là Tuyên
bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
Giới phân tích chính trị của Trung Quốc còn cho rằng, những
hành động mạnh của Trung Quốc trong hai thập kỷ từ (1975-1995) là chia cắt lợi
ích chủ quyền của các nước khác ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chỉ dẫn đến sự
hợp nhất về quan điểm chính trị và quân sự ở các nước Đông Nam Á chống lại
Trung Quốc. Đó là chính sách thất bại, bởi vì nó đã làm cản trở lợi ích sử dụng
lãnh thổ tự nhiên của quần đảo Trường Sa để theo đuổi các lợi ích về thương
mại, nghiên cứu, an ninh quốc gia và khu vực. Thực tế này cho thấy, những đề
xuất về “sở hữu chung” trong khu vực đối với các hòn đảo trên Biển Đông nên
được phục hồi lại theo họ là hợp lý.
Giới chức Trung Quốc, dẫn lại ý tưởng “chủ quyền khu vực”
được Mark Valencia, Jon Van Dyke và Noel Ludwig đưa ra, nhằm thiết lập một hình
thức đối với các hòn đảo mà không có nước bên ngoài. Quyền sở hữu khu vực được
thiết lập thông qua sự nhất trí giữa các bên yêu sách có thể thực hiện được
quyền này đối với các hòn đảo, lãnh hải và chủ quyền không phận. Điển hình về
quyền khu vực có nhiều hình thức nhưng phải dựa vào sự kết hợp của các nhân tố
như: dân số quốc gia, chiều dài đường bờ biển và mức độ sử dụng hiện tại và quá
khứ. Sự bố trí này sẽ cho phép tất cả các nước yêu sách trong khu vực theo đuổi
các lợi ích của họ về lãnh hải hữu hình ở Biển Đông thông qua một cơ chế chính
trị được vạch ra nhằm quản lý hiệu quả lãnh hải cho tất cả các bên.
Theo giới phân tích Trung Quốc, trên thế giới đã thành công
ý tưởng nêu trên đối với trường hợp quần đảo Svalbard nằm giữa bờ Bắc của Na Uy
và Greenland. Để giải quyết tình trạng mập mờ của Svalbard và tránh xung đột
quốc tế đối với các nguồn tài nguyên của nó, các nước liên quan đã tham dự Hội
nghị Paris ngay sau khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc để đàm phán
về Hiệp định Spitsbergen ngày 9/2/1920. Hiệp định này trao chủ quyền chủ yếu
cho Na Uy, nhưng trao quyền liên quan đến tài nguyên cho tất cả các bên ký kết
gồm: Australia, Canada, Đan Mạch, Pháp, Italia, Nhật Bản, Hà Lan, Na Uy, Thụy Điển,
Anh và Mỹ. Liên Xô ký hiệp định này năm 1924, Đức ký năm 1925; hiện nay đã có
hơn 40 nước ký hiệp định này, trong đó có cả Trung Quốc.
Khi hiệp định này có hiệu lực ngày 14/8/1925, Na Uy tiếp
quản chủ quyền, chịu các quyền của tất cả các bên về đánh bắt để hưởng “quyền
tự do tiếp cận và tiến vào vì bất kỳ lý do gì trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối”.
Biện pháp có tính sáng tạo này đối với chủ quyền vốn điều tiết các lợi ích lẫn
nhau của nhiều bên tham gia với sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đã đóng góp cho
an ninh khu vực bằng cách tránh được xung đột và quản lý hiệu quả các nguồn tài
nguyên sinh vật và vi sinh vật, nó cũng đã đóng góp hiệu quả cho nghiên cứu
khoa học quốc tế…
Theo giới chức Trung Quốc, mô hình nêu trên nên được xem xét
cho quá trình đàm phán tranh chấp ở Biển Đông nói chung và quần đảo Trường Sa
nói riêng. Cũng theo giới phân tích, đây thật sự là “mẹo” của Trung Quốc, vì
Trung Quốc đã đồng nhất vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế rõ ràng của Việt
Nam theo Luật Biển quốc tế năm 1982 với vùng còn mập mờ của quần đảo Svalbard ở
phí Bắc Na Uy, để tham vọng biến vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của
Việt Nam thành “sở hữu chung” của hai nước. Vì thế, việc “bày tỏ tin tưởng Việt
Nam và Trung Quốc sẽ giải quyết được vấn đề hiện nay thông qua đối thoại” trong
cuộc họp báo vừa qua của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, rất có thể
theo hàm ý đó.
Giới chức Trung Quốc cho rằng, “xung quanh vấn đề này có
nhiều chế độ cộng tác để chia sẻ quyền tài phán đối với các nguồn tài nguyên
biển vốn có thể được áp dụng một cách hiệu quả ở Biển Đông. Vùng đánh bắt cá
chung của Việt Nam và Trung Quốc ở Vịnh Bắc Bộ là một ví dụ về cách tiếp cận
đối với quyền tài phán chồng lấn và điều tiết các lợi ích lâu dài. Những yếu tố
hữu ích của thỏa hiệp này bao gồm các vùng tài phán quốc gia, một vùng quản lý
hợp tác quyền tài phán lẫn nhau và một thỏa thuận quản lý hợp tác”.
Với quan điểm nêu trên, giới chức Trung Quốc cũng viện dẫn
mô hình NAFO, tổ chức đánh bắt cá Tây Bắc Đại Tây Dương. NAFO quản lý các loài
cá ở những vùng biển có nhiều cá bên ngoài bất kỳ vùng đặc quyền kinh tế (EEZ)
nào ở Tây Bắc Đại Tây Dương. Mục tiêu của NAFO là đóng góp thông qua tham vấn
và hợp tác cho sự sử dụng tối ưu, quản lý và gìn giữ hợp lý các nguồn tài
nguyên cá thuộc khu vực công ước. Công ước này thiết lập một ủy ban đánh bắt cá
có mục đích đạt được “sự sử dụng tối ưu các nguồn thủy sản” và áp dụng một tổng
hạn mức đánh bắt hàng năm theo khuyến cáo của Hội đồng khoa học. Tổng hạn mức
đánh bắt cá hàng năm (theo loài) được ủy ban nói trên phân bổ cho các thành
viên với sự quan tâm đặc biệt đến các hình thức đánh bắt truyền thống và các
cộng đồng duyên hải mà sinh kế của họ phụ thuộc vào các nguồn đánh bắt cả ở các
vùng nước trong khu vực. Theo họ, một thực thể đa phương như trên có thể là mô
hình áp dụng cho Biển Đông.
Một ủy ban chịu trách nhiệm về việc áp dụng “các biện pháp
kiểm soát và thực thi quốc tế” làm cơ sở để các nước thành viên tham gia vào
thực thi hạn mức đánh bắt lẫn nhau. Các biện pháp thực thi lẫn nhau bao gồm một
hệ thống theo dõi tàu bắt buộc vốn sử dụng vệ tinh để cập nhật vị trí 2 tiếng
một lần; một chương trình quan sát viên bắt buộc trong đó mọi con tàu đánh bắt
cá trong khu vực quy định phải có quan sát viên độc lập và không thiên vị để
báo cáo mọi hành vi vi phạm; và một kế hoạch kiểm tra giám sát chung, trong đó
các bên là thành viên (luân phiên) phải có trách nhiệm thực hiện kiểm tra (hiện
nay đang là Canada và EU) để giám sát sự tuân thủ của các con tàu thuộc các bên
là thành viên và báo cáo những vi phạm rõ ràng của bất kỳ con tàu nào để có
biện pháp về hành chính hoặc xử phạt.
NAFO là hình thức điển hình cho sự hợp tác đôi bên cùng có
lợi về quyền tài phán mà các bên liên quan trong tranh chấp Biển Đông cần quan
tâm nghiên cứu và thúc đẩy hợp tác. Nghe có vẻ “hợp lý” làm sao? Tuy nhiên,
theo các nhà phân tích các giới chức Trung Quốc lại cố tình không hiểu điều vô
lý là việc đánh đồng vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo
đúng luật pháp quốc tế với vùng đánh bắt cá chung Việt Nam - Trung Quốc ở Vịnh
Bắc Bộ, hay mô hình NAFO ở Tây Bắc Đại Tây Dương. Trung Quốc cố tình không thấy
tính đặc thù của vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc là vùng hẹp không đủ
các yếu tố để hai bên khẳng định chủ quyền theo Luật Biển quốc tế năm 1982, nên
hai nước đã thỏa thuận như vậy là hợp lý, còn vùng thềm lục địa và đặc quyền
kinh tế của Việt Nam mà Trung Quốc đang cố tình đặt giàn khoan Hải Dương 981
lại khác. Thế mà Trung Quốc lại muốn “đàm phán” để biến nơi đây thành vùng
“đánh bắt cá chung” là điều vô cùng phi lý không thể chấp nhận được.
Vì thế, dư luận Việt Nam và quốc tế đang phản đối mạnh mẽ
Trung Quốc, coi đây là hành động vi phạm luật pháp quốc tế, trái với thỏa thuận
DOC, thỏa thuận cấp cao hai nước, làm tổn hại đến tình cảm hữu nghị giữa nhân
dân hai dân tộc Việt - Trung và đòi Trung Quốc rút toàn bộ giàn khoan Hải Dương
981 ra khỏi vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam là hoàn toàn có
cơ sở.
(Còn tiếp...)
Chủ quyền biển đảo (tổng hợp)
Theo
Năng lượng mới
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét