Ngày 16/6, trang mạng The Diplomat
của Nhật Bản đã cho đăng tải bài viết của Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia
nghiên cứu về Đông Nam Á thuộc Học viện Quốc phòng Australia có tiêu đề: “Chiến
dịch chiến tranh thông tin của Trung Quốc và Biển Đông - Xuất đầu lộ diện”. Nội
dung bài viết có một số điểm đáng chú ý sau:
Trung Quốc yếu lý sau những hành động gần đây ở Biển Đông |
Khi mà những tranh chấp lãnh thổ còn tiếp diễn
sau vụ hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981, Trung Quốc đã có bước đi kiểu “nước
đôi” ở Liên hợp quốc. Hôm 9/6, Trung Quốc bất ngờ mở một mặt trận mới, khi Phó
Đại sứ nước này tại LHQ, ông Vương Minh (Wang Min), đệ trình Tổng thư ký Ban
Ki-moon tài liệu nêu quan điểm chính thức của Bắc Kinh về tranh chấp ở Biển
Đông, cùng lời đề nghị chuyển văn bản này đến 193 nước thành viên.
Hành động quốc tế hóa trên đây không phải cho
thấy sự thay đổi trong chính sách bất biến lâu nay của Trung Quốc – chỉ xử lý
các mâu thuẫn, bất đồng tranh chấp lãnh thổ thông qua tham vấn và đàm phán song
phương giữa các bên liên quan. Đơn giản là bởi ngay sau khi đệ trình lên LHQ,
người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh lên tiếng khẳng định:
Bắc Kinh không chấp nhận cơ chế trọng tài phân xử tại LHQ. Vậy thì tại sao nước
này lại có động thái trên?
Năm 2003, Ban chấp hành Trung ương ĐCS Trung
Quốc cùng Quân ủy Trung ương đã chính thức thông qua học thuyết “Tam chủng
chiến pháp” (3 kiểu đấu pháp chiến tranh), coi đây là nhân tố quan trọng trong
chiến tranh thông tin. Theo học giả Timothy A. Walton thuộc công ty phân tích,
nghiên cứu, tư vấn Delex, tác giả cuốn “Tam chủng chiến pháp của Trung Quốc
(China’s Three Warfares) viết hồi năm 2012, thì chiến lược này gồm có 3 thành
tố: Chiến tranh tâm lý, chiến tranh truyền thông và chiến tranh pháp lý. Chính
2 nhân tố sau đã là cơ sở nền tảng để Trung Quốc đưa tài liệu quan điểm ra LHQ.
Chiến tranh truyền thông, theo Walton, là một
chiến lược được tạo lập nhằm gây ảnh hưởng, lèo lái dư luận quốc tế theo hướng
ủng hộ ủng hộ Trung Quốc, đồng thời phủ nhận những luồng tư tưởng của đối thủ
gây bất lợi cho Trung Quốc. Tài liệu quan điểm gửi ra LHQ là bước đi nhằm cô
lập Việt Nam, trong bối cảnh đa số các quốc gia thành viên tại tổ chức lớn nhất
hành tinh này đều không có lợi ích trực tiếp trong các tranh chấp lãnh thổ ở
Biển Đông.
Về chiến tranh pháp lý, theo Walton, đây là
cách sử dụng luật pháp trong nước và quốc tế nhằm tạo lập cơ sở pháp lý hậu
thuẫn cho tuyên bố chủ quyền và các lợi ích của Trung Quốc. Trong văn bản đệ
trình LHQ, Bắc Kinh đã “khéo léo” lựa trích, cắt cúp một số điều khoản nhất định
của luật pháp quốc tế nhằm biện minh cho quan điểm của mình.
Thế nhưng, chính ở góc độ pháp lý này mà Bắc
Kinh đã lộ ra các điểm yếu của mình. Khi mới hạ đặt, Trung Quốc cho là giàn
khoan Hải Dương 981 nằm tại điểm cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa 17
hải lý. Trong khi đó theo Công ước của LHQ về luật Biển (UNCLOS), vùng lãnh hải
chỉ kéo dài 12 hải lý tính từ bờ (đường cơ sở) của một quốc gia ven biển. Trong
tuyên bố hôm 6/6, Trung Quốc có ý “cải chính” lỗi sai này, khi nói rằng Hải
Dương 981 được đặt trong vùng tiếp giáp lãnh hải của Trung Quốc.
Lời khẳng định này cũng không có cơ sở pháp
lý. Theo UNCLOS, mục đích duy nhất của vùng tiếp giáp là nhằm tạo điều kiện cho
quốc gia ven biển “thực thi kiểm soát cần thiết để: (a) Ngăn chặn sự vi phạm
các luật hay quy định của quốc gia đó về hải quan, tài chính, di cư hay vệ sinh
trong phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải”; (b) Trừng phạt việc vi phạm các luật và
quy định trên đây, đã được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải của
quốc gia đó. Kế đến, Trung Quốc cũng tìm cách “tung hỏa mù”, khi tài liệu quan
điểm trên có nói là Hải Dương 981 cách Tri Tôn 17 hải lý, cách bờ biển Việt Nam
từ 133-156 hải lý; nhưng quên mất rằng Việt Nam chưa bao giờ từ bỏ tuyên bố chủ
quyền đối với Hoàng Sa và rằng hành động chiếm đóng bằng vũ lực của Trung Quốc
đối với quần đảo này không thể là cơ sở khẳng định chủ quyền.
Cuối cùng, phải thấy một sơ sót rất lớn trong
tài liệu của Trung Quốc trình LHQ: Văn bản nói rằng vùng biển giữa quần đảo
Hoàng Sa và bờ biển đất liền Việt Nam chưa được phân định. Hai bên chưa tiến
hành phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa trong vùng biển này.
Hai bên có quyền tuyên bố EEZ và thềm lục địa phù hợp với UNCLOS.
Trong trường hợp này, Trung Quốc phải tuân thủ
các điều khoản của UNCLOS về vùng biển chồng lấn. Theo đó, Trung Quốc và bên
tranh chấp phải tiến đến thỏa thuận điều khoản về vùng tranh chấp, cho đến khi
một hiệp định về phân định. Trong quá trình này, không bên nào được thay phép
nguyên trạng, sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực. Thế nhưng, rõ ràng việc
hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 đã “tố” Trung Quốc vi phạm các nguyên tắc của
luật pháp quốc tế.
Tựu chung lại, sau việc Trung Quốc đệ trình
tài liệu quan điểm tới Tổng thư ký LHQ, các quốc gia thành viên và cộng đồng
quốc tế, cần lưu ý đến những căng thẳng gia tăng ở Biển Đông và tác động của nó
đối với an ninh khu vực. Những nước này nên đồng thuận rằng vấn đề cần được Hội
đồng Bảo an để tâm.
Trung Quốc không được phép theo đuổi chiến
tranh thông tin theo hướng “nước đôi”: Vừa đưa tài liệu ra LHQ để mô tả bản
chất các tranh chấp, nhưng đồng thời lại không chấp nhận cơ chế phân xử trọng
tài LHQ. Mỹ và Australia cần thúc đẩy HĐBA thảo luận; Nhật Bản và các cường
quốc biển có lợi ích đối với việc duy trì ổn định ở Biển Đông cần tham gia vào
tiến trình này.
Trung Quốc cần bị đẩy vào thế “không thoải
mái” theo các hướng: họ không chấp nhận nhận các thảo luận ở HĐBA; hoặc là sẽ
phủ quyết một nghị quyết bày tỏ quan ngại về hành động trên Biển Đông. Đó sẽ
yếu tố buộc Bắc Kinh tháo chạy khỏi những toan tính muốn sử dụng LHQ cho các
mục đích tuyên truyền.
Chủ quyền biển đảo (tổng hợp)
Theo: baotintuc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét