Các tài liệu có từ cuối thời kỳ đang xem xét ở đây, xác nhận rằng cho đến
khi đó (cuối thế kỷ XIX), Trung Quốc chưa thể hiện tham vọng rõ ràng đối với
bất kỳ quần đảo nào trong hai quần đảo.
Trong luận án bảo
vệ tại Đại học Tổng hợp Pháp, Chu Kiện đã ghi trong đại sử ký của ông ta vào
thời điểm 1902: “Sự khảo sát đầu tiên của Trung Quốc về các vùng biển quần đảo
Tây Sa (Hoàng Sa)”. Điều này cho thấy rõ là không có “sự khảo sát” từ trước thì
càng không có sự quản hạt. Tác giả cũng tự mâu thuẫn với chính mình vì ông ta
đã bảo vệ điều đó trong luận văn này và không chỉ rõ xuất xứ rằng “Chính phủ
Trung Quốc của các triều đại liên tiếp đã sáp nhập về mặt hành chính các đảo và
đặt chúng dưới quyền tài phán của các nhà chức trách tỉnh Quảng Đông” (tr.265).
Vì thế một số nhà bình luận không tự bằng lòng việc xác nhận các quan điểm đã
làm sẵn đó, mà do sự lo lắng về tính khách quan đã buộc phải xem xét từng yếu
tố lập luận, họ đã đi đến kết luận là không có một danh nghĩa lịch sử lâu đời
của Trung Quốc đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Giả thuyết này chỉ
có thể đứng vững trên cơ sở các tài liệu chưa công bố so với tất cả những tài
liệu mà công trình nghiên cứu này đã dựa vào.
Chỉ duy sự có mặt của
các ngư dân Trung Quốc theo thời vụ là không bàn cãi. Nhưng cũng có cả những
ngư dân từ các vùng khác tới. Và trong luật quốc tế điều này không phải là cơ
sở cho một danh nghĩa pháp lý. Bởi vì “chỉ đơn thuần khẳng định các quyền chủ
quyền hoặc ý định thể hiện mong muốn làm cho một sự chiếm hữu thành thật sự là
chưa đủ”.
Phải chăng chế độ chư
hầu của Trung Quốc đối với Việt Nam đã đưa lại cho Trung Quốc những quyền thông
qua hành động của chính Việt Nam? Trước sự chính xác của các luận chứng của
Việt Nam đã tạo thuận lợi cho họ trong việc thụ đắc chủ quyền bằng những hành
vi từ thế kỷ XVIII, Trung Quốc đã phản bác lại là các vua An Nam luôn chỉ hoạt
động nhằm phục vụ tôn chủ của họ là hoàng đế Trung Hoa. Các hành vi của họ chỉ
“xác nhận chủ quyền Trung Quốc đối với các đảo không phải thuộc An Nam”. Như
vậy là phải làm sáng tỏ bản chất của mối quan hệ chư hầu này và những hậu quả
mà nó có thể mang lại đối với thẩm quyền về các đảo.
Vương quốc Việt Nam (Đại
Cồ Việt) được thành lập vào thế kỷ XI bằng việc thiết lập một quyền lực chính
trị và một nền cai trị độc lập đối với Trung Quốc, nhưng đồng thời công nhận
(khôn ngoan) quyền bá chủ của Trung Quốc. Mối quan hệ chư hầu này khó xác định
theo một quan điểm pháp lý bởi vì nội dung của nó mơ hồ và tăng giảm tùy theo
các thời kỳ. Nếu so sánh với phong kiến châu Âu, một mô hình có cấu trúc chặt
chẽ và được các luật gia phương Tây biết đến nhiều hơn, sẽ là một điều khinh
suất. Dường như, mối quan hệ ở đây chủ yếu là một sự trung thành có tính tôn
giáo đi kèm với sự nộp cống định kỳ thay đổi.
Trong tác phẩm
Trung Quốc việc giải quyết xung đột Đông Dương lần thứ nhất, (Geneve, 1954, NXB
Sorbonne, 1979) Francois Joyaux viết: “Về giá trị pháp lý của các mối quan hệ
này, rõ ràng không thể đánh giá chúng theo các quy tắc quốc tế của cộng đồng
châu Âu mà với chúng thật khó trùng hợp, nhất là sự khác nhau của thời đại và
sự khác biệt giữa các quan niệm ở châu Âu và các quan niệm của xã hội châu Á.
Triều đại Việt cần lễ thụ phong của Trung Quốc để được công nhận, giống như mọi
quốc gia hiện đại muốn đứng vững thì không thể bỏ qua sự công nhận quốc tế. Vả
lại, theo quan điểm Trung Quốc, ý tưởng có hai quốc gia khác biệt nhau là không
thích hợp. Đúng hơn, thay vào đó là ý tưởng về hai thế giới kế cận: Một thế
giới văn minh và một thế giới không văn minh.
Thế giới văn minh,
nghĩa là thế giới Khổng giáo, phải phục tùng Hoàng đế (mà chúng ta gọi là hoàng
đế Trung Quốc); để tham dự vào thế giới này mà nước Đại Việt phụ thuộc, vì nước
này sử dụng chữ viết Trung Quốc và tôn trọng các tập tục Trung Hoa, các biểu
tượng của văn minh, Đại Việt không còn cách nào khác là chịu làm chư hầu trước
Thiên Tử. Có nghĩa là sự cống nạp đó che đậy, về thực chất, một hệ thống quan
hệ cực kỳ phức tạp. Đối với Trung Quốc, cống nạp thể hiện sự phụ thuộc tối đa
mà họ hy vọng qua đó có thể duy trì một nước Việt mà không gây phản ứng “đế
quốc” từ phía Đại Việt. Ngược lại, đối với Đại Việt, cống nạp thể hiện sự độc
lập tối đa mà vương quốc này có thể đạt tới mà không gây nên phản ứng đế quốc
từ phía Trung Quốc. Trong trường hợp này cũng như trường hợp kia, có tính Khổng
giáo của hai quốc gia, việc triều cống, ít nhất là một phần, chứng tỏ rằng cả
hai bên cùng thuộc một hệ thống giá trị”. Ngay cả Trung Quốc cũng có một khái
niệm mơ hồ và mở rộng đến mức mà “Kỷ yếu chính thức của Chính phủ Trung Quốc đã
xếp là ở thế kỷ XIX chư hầu của họ bao gồm: An Nam, Miến Điện, Xiêm, Lào, Anh,
Hà Lan, Ý, Bồ Đào Nha và Tòa thánh!” (Trích dẫn của Jean Pierre Ferrier: Tranh
chấp các quần đảo Hoàng Sa và vấn đề chủ quyền trên các đảo không người ở,
tr.180 - 181)
Đây không phải là một
tình trạng pháp lý lệ thuộc như trong một số vụ khác gọi là “bán chủ quyền”.
Một nước bán chủ quyền có đặc điểm là năng lực quốc tế của họ không bao giờ
được trọn vẹn. Trong trường hợp như thế có sự từ bỏ một số thẩm quyền quốc tế
cho tôn chủ và chủ quyền của chư hầu bị cắt một phần. Chúng ta thấy chẳng có gì
giống như vậy trong các quan hệ giữa An Nam và Trung Quốc. Chế độ chư hầu được
Việt Nam chấp nhận trên danh nghĩa, dưới hình thức triều cống danh dự. Không
bao giờ Trung Quốc nhìn vào quan hệ đối ngoại của nước Việt Nam cũ. Nhưng nghĩa
vụ tôn kính của triều đình Huế đối với triều đình Bắc Kinh là hoàn toàn hình
thức. Nói như Adrien Maisonneuve trong Bản anh hùng ca của Pháp ở Đông Dương đó
chỉ là “một bá quyền về danh nghĩa, theo nghi thức và hoàn toàn đạo đức hơn là
một bá quyền thực sự mang tính chất chính trị”.
Chủ quyền biển đảo (tổng hợp)
Theo: baotintuc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét