Cái gọi là danh nghĩa chủ quyền
của Trung Quốc đối với các quần đảo ngoài khơi Biển Đông đã bị cộng đồng quốc tế
bác bỏ rõ ràng trong khuôn khổ Hội nghị San Francisco
(năm 1951) gồm 51 quốc gia tham dự.
Trụ sở hành chính Việt Nam tại Hoàng Sa trước 1945 |
Khăng khăng “không cần tranh cãi”
Ngày 29/4/1932, chính phủ Pháp gởi kháng nghị
nêu rõ các bằng chứng về sự chiếm hữu của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường
Sa. Sau đó, lần đầu tiên Pháp “mời” Trung Hoa Dân Quốc ra tòa án quốc tế phân
xử, nhưng nước này ngay lập tức tuyên bố “không cần tranh cãi”.
Ngày 13/4/1933, một chiến hạm thuộc lực lượng
hải quân Pháp ở Viễn Đông dưới sự chỉ huy của trung tá De Lattre rời Sài
Gòn đến quần đảo Trường Sa. Một nghi thức chiếm hữu theo truyền thống của
phương Tây được tiến hành. Một văn bản được thảo ra và các thuyền trưởng ký
thành 11 văn bản.
Năm 1934 – 1935, Bộ ngoại giao và Bộ nội vụ
Trung Hoa dân quốc giao cho ủy ban thẩm tra bản đồ thủy lục âm thầm đặt tên
quần đảo Đoàn Sa cho quần đảo Trường Sa của Việt Nam và phiên âm dịch nghĩa
khoảng 124 bãi đá ngầm, đảo nhỏ, ngầm của Hoàng Sa và Trường Sa thành tên Trung
Quốc. Lúc này các quần đảo lớn mới có tên Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa và Đoàn Sa.
Người Pháp lập tức đầy mạnh đầu tư xây dựng
nhiều cơ sở hạ tầng khá hiện đại lên Hoàng Sa. Sau cuộc khảo sát của Viện Hải
dương học và nghề cá Nha Trang, năm 1938 Pháp đã cử các đơn vị bảo an lên các
đảo để bắt đầu xây dựng, tổ chức quản lý trên các đơn đảo.
Tại đảo Hoàng Sa và Ba Bình và Phú Lâm, một trạm khí tượng, bia chủ quyền, hải đăng, trạm phát sóng TFS được dựng lên. Các công chức ra Hoàng Sa được đưa vợ con ra sinh sống, có nhà cửa tránh bão, giếng đào có nước ngọt đầy đủ. Hàng tháng có tàu tiếp tế từ đất liền chở ra lương thực, thực phẩm.
Tại đảo Hoàng Sa và Ba Bình và Phú Lâm, một trạm khí tượng, bia chủ quyền, hải đăng, trạm phát sóng TFS được dựng lên. Các công chức ra Hoàng Sa được đưa vợ con ra sinh sống, có nhà cửa tránh bão, giếng đào có nước ngọt đầy đủ. Hàng tháng có tàu tiếp tế từ đất liền chở ra lương thực, thực phẩm.
Cũng trong giai đoạn này, TQ tiến hành vẽ mới
các bản đồ, phiên âm và điều chỉnh đặt tên Trung Quốc. Tuy nhiên, sau này có sự
thay đổi tên liên tục vì không nhất quán.
Có thể nói tới năm 1938, các quần đảo Hoàng Sa
đã được quản lý chặt chẽ. Trung Hoa Dân Quốc không còn hung hăng đòi hỏi chủ
quyền như trước nhưng vẫn ngoan cố khẳng định chủ quyền là của họ “không cần
tranh cãi”.
Năm 1939, tình hình chiến tranh lan rộng khắp
châu Á. Nhật bắt đầu nhảy vào Đông Dương. Để thực hiện kế hoạch mở rộng lãnh
thổ, Nhật đòi Pháp trao Hoàng Sa, Pháp phản đối. Anh ủng hộ Pháp, phản đối yêu
sách vô lý của Nhật.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương,
toàn bộ công chức, quân Pháp và Việt Nam tại Hoàng Sa bị bắt làm tù binh. Hoàng
Sa thành căn cứ hậu cần của Nhật, được Nhật sử dụng phục vụ cho cuộc chiến vùng
Đông Á, các tàu chiến Nhật thường xuyên ghé qua.
Lợi dụng thời cơ
Ngày 19/8/1945, Cách mạng tháng Tám thành
công. Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc tuyên ngôn độc lập ở Quảng Trường Ba Đình, chấm dứt chế độ đô hộ của
Pháp.
Sau khi Nhật bại trận, Pháp trở lại xâm lược
Việt Nam. Theo phân công của phe Đồng Minh, quân Tưởng Giới Thạch tiếp quản nơi
quân đội Nhật chiếm đóng từ phía Bắc vĩ tuyến 16. Hai nước Pháp và Trung Hoa
đều tiếp tục tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, vẫn tiếp tục coi
trọng vị trí chiến lược Hoàng Sa và Trường Sa.
Vợ công chức trên đảo Hoàng Sa |
Quân Nhật đã rút khỏi quần đảo Hoàng Sa cũng
như Trường Sa vào năm 1946, Pháp trở lại Việt Nam làm chủ Biển Đông, lập tức
cử một phân đội bộ binh Pháp đổ bộ từ tàu Savorgnan de Brazza đến thay thế quân
đội Nhật từ tháng 5/1946, nhưng đơn vị này chỉ ở đó trong vài tháng. Trong thời
gian từ 20 – 27/5/1946, đô đốc D’Argenlieu, cao ủy Đông Dương cũng đã phái tốc
hạm L’Escarmouche ra nắm tình hình đảo Hoàng Sa (Pattle ) thuộc quần đảo Hoàng
Sa.
Vào lúc quân đội viễn chinh Pháp và Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đang bận đối phó với
cuộc chiến tranh toàn diện sắp xảy ra, thì ngày 26/10/1946, lợi dụng thời cơ,
hạm đội đặc biệt của Trung Hoa Dân Quốc gồm 4 chiến hạm, mỗi chiếc chở một số
đại diện của các cơ quan và 59 binh sĩ thuộc trung đội độc lập về cảnh vệ của
hải quân (tiền thân của quân thủy đánh bộ) xuất phát từ cảng Ngô Tùng ngày
9/10/1946. Ngày 29/11/1946, các tàu Vĩnh Hưng và Trung Kiên tới đảo Hoàng Sa và
đổ bộ lên đây. Tàu Thái Bình và Trung Nghiệp đến Trường Sa.
Ngày 17/10/1947, Thông báo hạm Tonkinois của
Pháp được phái đến Hoàng Sa để yêu cầu quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Phú Lâm
nhưng họ không rút. Pháp gửi một phân đội lính trong đó có cả quân lính “Quốc
gia Việt Nam” đến đóng một đồn ở đảo Hoàng Sa (Pattle). Chính phủ Trung Hoa Dân
Quốc phản kháng và các cuộc thương lượng được tiến hành từ ngày 25/2 đến ngày
4/7/1947 tại Paris. Tại đây, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã từ chối không chấp
nhận việc nhờ trọng tài quốc tế giải quyết do Pháp đề xuất. Ngày 1/12/1947, Bộ
Nội vụ chính quyền Tưởng Giới Thạch công bố tên Trung Hoa cho hai quần đảo và
đặt chúng thuộc lãnh thổ Trung Hoa.
Tháng 4/1949, Đổng lý văn phòng của quốc
trưởng Bảo Đại là hoàng thân Bửu Lộc, trong một cuộc họp báo tại Sài Gòn đã
công khai khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đã từ lâu đời trên quần đảo
Hoàng Sa.
Vào ngày 1/10/1949, Cộng hoà Nhân dân Trung
Hoa được thành lập ở lục địa Trung Quốc, Trung Hoa Dân Quốc do Tưởng Giới Thạch
cầm đầu đã rút lui ra Đài Loan. Tháng 4/1950, đồn lính Trung Hoa dân quốc chiếm
đóng bất hợp pháp ở đảo Phú Lâm (Ile Boisée) thuộc quần đảo Hoàng Sa đã rút
lui. Còn đồn lính của Pháp đóng ở đảo Hoàng Sa (Pattle) vẫn còn duy trì. Đến
năm 1954, Pháp đã chính thức trao lại quyền quản lý cho Chính phủ Quốc gia Việt
Nam.
Đào giếng nước ngọt ở Hoàng Sa năm 1938 |
Trước đó, ngày 14/10/1950, chính phủ Pháp
chính thức chuyển giao cho chính phủ Bảo Đại quyền quản lý các quần đảo Hoàng
Sa. Thủ hiến Trung Phần là Phan Văn Giáo đã chủ tọa việc chuyển giao quyền hành
ở quần đảo Hoàng Sa.
Hội nghị San Francisco có 51 quốc gia tham dự
từ ngày 5/ 9 đến ngày 8/9/1951, ký kết hoà ước với Nhật. Ngày 5/9/1951, họp
khoáng đại, ngoại trưởng Gromyko đề nghị 13 khoản tu chính. Khoản tu chính liên
quan đến việc Nhật nhìn nhận chủ quyền của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đối với
đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa dưới phía Nam đã bị Hội nghị bác bỏ với 48
phiếu chống và 3 phiếu thuận. Như vậy, cái gọi là danh nghĩa chủ quyền Trung
Quốc đối với các quần đảo ngoài khơi Biển Đông đã bị cộng đồng quốc tế bác bỏ rõ
ràng trong khuôn khổ một Hội nghị quốc tế.
Ngày 7/9/1951, tại hội nghị trên, Thủ tướng
kiêm ngoại trưởng Trần Văn Hữu của Chính phủ Bảo Đại long trọng tuyên bố rằng
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam: “Et comme il faut
franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les germes de discorde,
nous affirmons nos droits sur les îles Spratley et Paracels qui de tout temps
ont fait partie du Viet Nam”.
Chủ quyền biển đảo (tổng hợp)
Theo: vietnamnet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét