Hải chiến Vân Đồn đã làm nên chiến
thắng Bạch Đằng, một trong những trận thủy chiến vĩ đại nhất của lịch sử quân
sự thế giới.
Kỳ 2: Vị tướng trấn ải đông bắc
Ở đảo Quan Lạn (Vân Đồn, Quảng Ninh), ngoài
ngôi đình, ngôi đền cổ, còn có một di tích lớn, đó là đền thờ Trần Khánh Dư.
Ngôi đền mới được dựng lại khang trang giữa cánh đồng để tưởng nhớ danh tướng
tuấn kiệt, người đóng góp rất lớn cho ba lần chiến thắng quân Nguyên, đặc biệt
là sự xuất thần của ông trong cuộc chiến lần thứ ba.
Nhân huệ vương Trần Khánh Dư là con trai
Thượng tướng Trần Phó Duyệt, là dòng dõi của nhà Trần.
Ông trực tiếp cầm quân tham gia cả ba lần
chống quân Nguyên xâm lược và lập nhiều chiến công, nên được nắm giữ nhiều chức
vụ trọng yếu trong triều đình, như Phó đô tướng quân, Phiêu kỵ đại tướng quân,
Trật hầu, Tử phục thượng vị hầu, quyền chức Phán thủ…
|
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần
thứ ba, năm 1287, ông được vua Trần tin tưởng nên giao cho nhiệm vụ rất quan
trọng, là bảo vệ vùng Đông Bắc Tổ quốc. Ông có toàn quyền quyết định mọi vấn đề
an ninh ở khu vực Vân Đồn cổ, chính là vùng đảo Quan Lạn bây giờ.
Thời Trần, vùng biển Vân Đồn là một thương
cảng cực kỳ sầm uất. Đây không chỉ là vị trí trọng yếu về chính trị, chiến
lược, mà còn là cảng biển giao thương toàn vùng châu Á.
Để tiến hành xâm lược nước ta, quân Nguyên đã
chuẩn bị nhiều năm trời. Chúng sai rất nhiều nội gián tìm sang, đóng giả thương
nhân để do thám tình tình. Biết được điều đó Trần Khánh Dư đưa ra mệnh lệnh bắt
buộc người dân ở Vân Đồn phải đội nón Ma Lôi, để phân biệt với nội gián.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Khánh Dư đã sai
người nhà mua nón Ma Lôi từ trước, chở thuyền đến đậu trong cảng. Lệnh vừa ra,
sai ngầm báo người dân trong trang: “Hôm qua thấy trước vụng biển có thuyền chở
nón Ma Lôi đậu. Do đấy, người trong trang tranh nhau mua nón, ban đầu mua không
tới 1 tiền, sau giá đắt, bán 1 chiếc nón giá 1 tấm vải, số vải thu được đến
hàng nghìn tấm”.
Sách chép, nội gián của nhà Nguyên vào nước ta
đông đến nỗi bán hết cả thuyền nón. Trần Khánh Dư biết tâm địa của bọn chúng,
nên lợi dụng để khai thác thông tin.
Đại Việt sử ký toàn thư chép tiếp: “Ngày
30-12-1287, thái tử Nguyên A Thai cùng Ô Mã Nhi họp 30 vạn quân đánh Vạn Kiếp
rồi thuận dòng xuôi về đông.
Cùng thời điểm đó, thủy quân Nguyên do Ô Mã
Nhi gồm 650 chiến thuyền đánh vào Vân Đồn. Trần Khánh Dư chỉ có 100 chiến
thuyền nên không chống đỡ nổi địch, thất bại nhanh chóng. Tin đến tai triều
đình, vua Trần sai trung sứ xiềng Khánh Dư giải về kinh. Khánh Dư nói: “Lấy
quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin khất hai, ba ngày để mưu lập công
rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn”.
Vua Trần thấy được sự tự tin của Trần Khánh
Dư, nên đã đồng ý cho Trần Khánh Dư lập công chuộc tội. Vì lợi dụng được bọn
nội gián, nên ông biết được con đường tải lương của giặc. Ông lập tức thu thập
tàn binh đợi chúng. Chẳng bao lâu thuyền vận tải quả nhiên đến, Khánh Dư đánh
bại chúng, bắt được quân lương khí giới của giặc nhiều không kể xiết, tù binh
cũng rất nhiều…”.
Trong khi đó Khâm Định Việt sử thông giám
Cương Mục chép: “Khánh Dư đoán chắc thuyền của giặc đã đi qua rồi, thì thuyền
tải lương tất đi theo sau, liền thu thập tàn quân, sẵn sàng chờ đợi. Một lát
sau, quả nhiên thuyền tải lương của Văn Hổ đến, Khánh Dư đón đánh, quân Nguyên
bị thua to. Khi đi đến biển Lục Thủy Dương (nước biển vịnh Bắc Bộ màu xanh
thẫm, nên người Tàu gọi như vậy), thuyền của quân Nguyên bị mắc cạn, sa lầy,
không chở đi được, lương thực chìm cả xuống biển. Khánh Dư bắt được khí giới,
quân nhu rất nhiều. Văn Hổ chỉ thoát được một mình, vội vàng chạy về Quỳnh
Châu…”.
Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim viết khá
kỹ: “Ô Mã Nhi đem thuyền đi đến ải Vân Đồn gặp quân của Trần Khánh Dư chặn
đường không cho đi. Ô Mã Nhi thúc quân đánh rát một trận, quân Khánh Dư thua bỏ
chạy cả. Quân Nguyên kéo thẳng ra bể đi đón thuyền lương…
Được mấy hôm Ô Mã Nhi ra bể gặp thuyền lương
của Trương Văn Hổ, lại đem quân trở vào đi trước dẹp đường, Trương Văn Hổ đem
thuyền lương theo vào sau… Trương Văn Hổ tải các thuyền lương vào cửa bể Lục
Thủy Dương. Khánh Dư đổ quân ra đánh, Văn Hổ địch không nổi, bao nhiêu thuyền lương
bị quân Khánh Dư phá cướp mất cả, và bắt được khí giới rất nhiều…”.
Trận hải chiến trên Vịnh Bắc Bộ tiêu diệt
nhiều giặc, phá hủy và cướp toàn bộ đoàn thuyền lương, binh khí của quân Nguyên
có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến thắng quân Nguyên lần thứ ba. Sử
thần Ngô Sĩ Liên đã đánh giá về Trần Khánh Dư như sau: “Ba đường tiến quân bằng
thuỷ bộ của giặc Nguyên đều trông vào thuyền lương vận tải đường biển… Chẳng có
ngờ đâu số lương 17 vạn thạch (theo truyền thuyết ở Quan Lạn thì có tới 70 vạn
thạch) đã chìm hết ở Vân Đồn và Văn Hổ cũng đã chuồn từ lâu rồi. Đi đón đã lâu
rốt cuộc lương không đến. Vì thế ba quân đói khát, lương thực đã không có, đồng
nội cũng không cướp được gì. Tướng sĩ đều mang lòng căm phẫn. Ép họ chiến đấu
thì họ trả lời: “Ốm đau không chiến đấu được”. Dụ họ ở lại thì họ trả lời:
“Lương hết không thể ở lại được”. Họ đã quyết kế về thì không cần ta phải đuổi,
tin thắng ở Bạch Đằng chỉ làm tăng thêm binh uy mà thôi…”. Còn Thượng hoàng
Trần Thánh Tông thì nói: “Chỗ trông cậy của quân Nguyên là lương thảo khí giới,
nay đã bị ta bắt được, sợ nó chưa biết, có thể còn hung hăng chăng?”.
Để tưởng nhớ và ghi nhận công lao to lớn của
Trần Khánh Dư, người dân địa phương đã tôn ông làm Thành hoàng và thờ tự tại
đình Quan Lạn. Hàng năm, người dân trong vùng tổ chức lễ hội Quan Lạn vào trung
tuần tháng 6 âm lịch để tưởng nhớ công lao của ông, cùng các tướng sĩ đã làm
nên trận hải chiến oanh liệt.
Nhà sử học Đặng Hùng nhận xét rằng, nếu không
có chiến thắng trong trận hải chiến trên vịnh Vân Đồn, chắc không có cuộc rút
lui của giặc Nguyên, dẫn giặc đến trận đại bại trên sông Bạch Đằng tháng
4-1288, một trong những trận thủy chiến vĩ đại nhất của lịch sử quân sự thế
giới.
Theo tư liệu khoa học của sách Di tích lịch sử – văn hoá
Vân Đồn, do Ban quản lý các di tích trọng điểm Quảng Ninh và Nhà xuất bản Khoa
học xã hội xuất bản năm 2010, thì đội quân thủy chiến mang tên Bình Hải của
Trần Khánh Dư có 30 đô, biên chế mỗi đô 80 người lính, toàn quân có 30 chiến
thuyền, mỗi thuyền có 30 lính chèo thuyền. Như vậy, có thể tính ra, toàn bộ đạo
quân thủy chiến của Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư có khoảng 3.300 người. So với
số dân lúc bấy giờ, số quân đó đủ mạnh để bảo vệ cả một vùng biển đảo rộng lớn
của vùng Đông Bắc.
Chủ quyền biển đảo (tổng hợp)
Theo: VTC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét