Dù Trung Quốc kéo giàn khoan Hải
Dương-981 ra khỏi vùng biển của Việt Nam về đảo Hải Nam song “trò chơi được
mất” của ông Tập Cận Bình đã gây tổn hại nghiêm trọng tới quan hệ lâu dài giữa
hai nước.
Tạp chí Eurasia Review đã cho đăng tải bài
phân tích – bình luận của ông Đỗ Thanh Hải, nhà nghiên cứu cấp cao thuộc Trung
tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc phòng tại Đại học quốc gia Australia về những
biến chuyển trong mối quan hệ Việt – Trung sau sự kiện Bắc Kinh trái phép kéo
giàn khoan Hải Dương-981 vào Biển Đông.
Xây dựng mối quan hệ bền vững
Kể từ khi bình thường hóa quan hệ vào năm
1991, Việt Nam và Trung Quốc đã xây dựng mối quan hệ ngoại giao trên 2 cơ sở.
Thứ nhất, các cuộc đối thoại thường xuyên giữa
chính phủ hai nước được tổ chức nhằm mở rộng mối quan hệ hợp tác, xử lý tình
huống bất ngờ và giải quyết các tranh chấp thông qua đàm phán.
Thông qua các cuộc họp này, Hà Nội muốn khẳng
định chắc chắn lời cam kết của Bắc Kinh về việc không đe dọa và không sử dụng
vũ lực để giải quyết “những bất đồng lịch sử” mà cụ thể là các tranh chấp liên
quan tới chủ quyền lãnh thổ. Đổi lại, Việt Nam cam kết theo đuổi chính sách
chiến lược không liên kết.
Thứ hai, Việt Nam và Trung Quốc cùng tham gia
xây dựng các cơ chế do Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) dẫn đầu, nhằm
đề ra những biện pháp xây dựng niềm tin và tránh hiểu nhầm ngoại giao.
Trên cơ sở đó, niềm tin và tình hợp tác giữa
hai nước đã gia tăng một cách ổn định. Những tranh chấp về ranh giới biên giới
đường bộ và các đường ranh giới trên vịnh Bắc Bộ cũng lần lượt được hai nước
giải quyết vào năm 1999 và 2000. Song, đôi khi, quan hệ giữa hai nước vẫn rơi
vào vòng xoáy căng thẳng xung quanh những bất đồng trên Biển Đông song nó không
thể ảnh hưởng tới toàn bộ mối quan hệ Việt – Trung.
Theo đó, ASEAN và Trung Quốc đã cùng ký kết
“Tuyên bố về Cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC) nhằm kêu gọi các nước
liên quan theo đuổi giải pháp hòa bình để xử lý và giải quyết những tranh chấp
tại vùng biển chiến lược này. Trong thời gian tới, Trung Quốc và ASEAN được kỳ
vọng đi tới ký kết bộ “Quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông” (COC).
“Cuộc chơi được mất” trên Biển Đông của Trung Quốc
Kể từ giữa những năm 2000, Hà Nội đã tiên
lượng được sự hung hăng gia tăng của Trung Quốc trong cuộc chiến đơn phương
giành chủ quyền trên Biển Đông.
Vào năm 2006 – 2007, Trung Quốc đã de dọa
không cho các công ty dầu khí quốc tế hợp tác với Tập đoàn dầu khí PetroVietnam
trong Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Cùng thời điểm này, các tàu
bán quân sự của Trung Quốc đã nhiều lần hung hăng thể hiện yêu sách khi mở rộng
hải phận tới bãi cạn James.
Hồi tháng 5/2009, Bắc Kinh đã thách thức cả
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) khi đơn phương công bố tấm “bản
đồ đường chín đoạn” gây tranh cãi. Sau đó, Trung Quốc tiếp tục thay đổi hiện
trạng trên bãi cạn Scarborough và Bãi Cỏ Mây.
Chưa dừng lại, đầu tháng 5/2014, Trung Quốc đã
ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 vào vùng biển thuộc Vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Theo quan điểm của Việt Nam, đây là hành động
“có tình tạo sự đã rồi” và đi ngược với những cam kết được giới lãnh đạo cấp
cao giữa hai nước thỏa thuận. Ngay cả, sự tự do hàng hải trên Biển Đông cũng bị
thay đổi khi Trung Quốc ngang nhiên cấm các tàu thuyền hoạt động gần Hải
Dương-981 và luôn giữ khoảng cách trong bán kính hơn 10 hải lý.
Nguy hiểm hơn, Trung Quốc còn điều động một
lượng lớn tàu thuyền tới hỗ trợ hoạt động trái phép của Hải Dương-981 và sử
dụng vũ lực như cố tình đâm va, phun vào rồng, hú còi nhằm vào các tàu chấp
pháp của Việt Nam thậm chí đánh chìm một tàu cá Việt Nam.
Việc Trung Quốc kéo giàn khoan Hải Dương-981
vào vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam đã cho thấy 3 thực tế mà Hà Nội cần
phải cân nhắc thận trọng.
Thứ nhất, sự xuất hiện của Hải Dương-981 hoàn
toàn có chủ ý, được chuẩn bị kỹ lưỡng và lên kế hoạch bởi nó diễn ra chỉ sau 6
tháng Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường thực hiện chuyến thăm tới Hà Nội.
Thứ hai, động thái đưa giàn khoan Hải
Dương-981 ra Biển Đông đã được lên kế hoạch quy mô tập trung và chỉ đạo thống
nhất xuất phát từ sự hợp tác chặt chẽ giữa các ban ngành cấp cao của Trung
Quốc.
Thứ ba, Trung Quốc đã lách luật lệnh cấm sử
dụng vũ lực trên Biển Đông. Thay vì sử dụng các tàu thuyền của Hạm đội Nam Hải,
Trung Quốc đã điều động các tàu dân sự để tấn công tàu nước ngoài trên Biển
Đông.
Phản ứng kiềm chế của Việt Nam
Ngay từ đầu, Việt Nam đã theo đuổi giải pháp
đàm phán hòa bình để giải quyết căng thẳng trên Biển Đông. Tuy nhiên, nỗ lực
đàm phán với Trung Quốc đã thất bại và Bắc Kinh vẫn không có phản ứng phù hợp.
Ngay cả 4 đường dây nóng giữa Hà Nội và Bắc Kinh cũng không phát huy tác dụng
như kỳ vọng.
Chuyến thăm gần đây của Bộ trưởng Ngoại giao
Trung Quốc Dương Khiết Trì tới Hà Nội cho thấy Việt Nam cần tìm ra cách phản
ứng khác, phù hợp hơn với thái độ ngang ngược của Trung Quốc. Ngay trước chuyến
thăm của ông Dương Khiết Trì, Cục Hải sự Trung Quốc đã ra thông báo đưa giàn
khoan Nam Hải-9 tới gần cửa Vịnh Bắc Bộ – khu vực mà hai bên đang tiến hành đàm
phán, phân định.
Việt Nam đã tổ chức 5 cuộc họp báo tại Hà Nội
để đưa ra các bằng chứng nhằm chứng minh hành động hung hăng của Trung Quốc
trên Biển Đông. Cả ASEAN, G7 và hàng chục quốc gia đều thể hiện mối quan
ngại về động thái của Trung Quốc. Trong đó, Mỹ, Nhật Bản và Australia khẳng
định hành động đơn phương của Trung Quốc chỉ “gây bất ổn và vô ích”. Tại Đối
thoại Shangri-La gần đây, các quan chức Trung Quốc đã đối mặt với không ít lời
chỉ trích và câu hỏi khó của giới lãnh đạo các nước.
Tiếp đó, Việt Nam đưa vấn đề trên ra thảo luận
trong các cuộc hội thảo ASEAN. Tuy nhiên, sự đồng lòng lên tiếng chỉ trích
Trung Quốc trong khối ASEAN lại khá lỏng lẻo. Không nản lòng, Việt Nam còn đưa
những tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông lên Liên Hợp Quốc.
Ngay cả trong bối cảnh hiện nay khi Trung Quốc
đã rút giàn khoan Hải Dương-981 ra khỏi vùng biển của Việt Nam, Hà Nội vẫn luôn
thường trực mối lo về một ngày không xa, Bắc Kinh sẽ lại đưa Hải Dương-981 trở
lại. Dường như không ai tin rằng Trung Quốc kéo giàn khoan về đảo Hải Nam chỉ
vì Việt Nam phản đối hành động này.
Dòng chảy ngầm tại Việt Nam
Chính sự hung hăng gây căng thẳng trên Biển
Đông của Trung Quốc đã buộc Việt Nam thay đổi chính sách chiến lược.
Trước hết, Việt Nam nhận thức được rằng Trung
Quốc đang là nhân tố ngày càng nhiều bất ổn nếu không muốn nói là một mối đe dọa.
Rõ ràng, Trung Quốc không lắng nghe thông điệp về “niềm tin chiến lược” được
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố trong Đối thoại Shangri-La năm 2013. Niềm
tin của Việt Nam với Trung Quốc cũng đang xuống dốc trước những hành động đơn
phương và hung hăng của quốc gia láng giềng phương Bắc.
Những tuyên bố mạnh mẽ gần đây của quan chức
Việt Nam như “sử dụng mọi biện pháp cần thiết”, “bảo vệ quyền phòng vệ”, và
“không bao giờ đánh đổi chủ quyền vì thứ hữu nghị viển vông”, cho thấy Việt Nam
đang mất dần sự kiên nhẫn trước Trung Quốc.
Tuy nhiên, lo ngại trước tình hình căng thẳng
leo thang thành xung đột vũ trang hoặc phá vỡ mối quan hệ Việt – Trung lâu nay,
Hà Nội đã cẩn trọng cân nhắc từng động thái phản ứng và chờ hành động của Trung
Quốc sau ngày 15/8. Như các quan chức Việt Nam tuyên bố Hà Nội sẵn sàng theo
đuổi vụ kiện Trung Quốc nhưng sẽ chờ tới thời điểm thích hợp. Rõ ràng, Việt Nam
sẽ không tung ra đòn pháp lý cho tới khi công tác đề phòng mối quan hệ chính
trị và kinh tế với Trung Quốc sụp đổ, được chuẩn bị kỹ lưỡng.
Vùng đặc quyền kinh tế dọc bờ biển Việt Nam
không chỉ là khu vực giàu tài nguyên kinh tế mà còn là vùng an ninh quan trọng.
Do đó, Việt Nam cần duy trì công tác bảo đảm an ninh bờ biển cũng như ngăn cản
Trung Quốc đưa giàn khoan dầu quay trở lại vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia.
Nếu Trung Quốc tiếp tục gây hấn với Việt Nam, Hà Nội không còn cách nào khác là
xem xét lại chính sách chiến lược của mình.
Ngoài ra, Việt Nam cũng đang khẩn trương cử
các quan chức cấp cao tới Washington tiến hành đàm phán với phía Mỹ để gỡ bỏ
lệnh cấm vận và nhập khẩu các loại vũ khí sát thương nhằm tăng khả năng phòng
thủ.
Trên thực tế, lịch sử đã chứng minh hai nhận
định. Thứ nhất, Việt Nam không bao giờ quỳ gối trước bất cứ quốc gia nào. Thứ
hai, tình bạn lâu năm sẽ nhanh chóng sụp đổ nếu niềm tin không còn.
Chủ quyền biển đảo (tổng hợp)
Theo: Infonet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét