Thế
kỉ XVIII, Châu Âu cho rằng Trung Hoa là nước văn minh nhất thế giới, thế kỷ sau
họ gọi Trung Hoa là con sư tử ngủ, chính Napoléon cũng cho rằng “Khi Trung Hoa cựa mình thức dậy thì thế giới
sẽ rung động”.
Ngoại giao pháo hạm của Trung Quốc |
Khi ngủ thì họ ngủ cả ngàn năm
mà khi thức dậy thì họ tiến rất mau, từ một nước quân chủ chuyên chế sang một
nước XHCN. Chỉ sau gần 40 năm
trỗi dậy, Trung Quốc đến nay đã trở thành quốc gia có tầm ảnh hưởng mang tính
toàn cầu chỉ sau Mỹ một số phương diện. Lịch sử đã chứng minh, khi Trung Hoa
ngủ thì “thiên hạ” được yên ổn
và khi Trung Hoa thức dậy thì thiên hạ lo lắng.
Ngày nay, khi Trung Quốc trỗi
dậy, các nước một mặt cảm thấy thán phục, nhưng mặt khác cảm thấy bất an. Và,
để nhằm trấn an các nước, nhất là những quốc gia láng giềng Trung Quốc đã sử
dụng thuật ngữ “trỗi dậy hòa bình”
(Peaceful Rise), sau này họ chuyển thành “phát triển hòa bình” (Peaceful
Development). Tuy nhiên, trên thực tế Trung Quốc đã chuyển từ “trỗi dậy hòa bình” hay “phát triển hòa bình” sang “cứng rắn”, và theo đó “thuyết đe dọa từ Trung Quốc” (China
Threat Theory) ngày càng có chỗ đứng hiện nay.
Khái niệm “trỗi dậy hòa bình” đã được giới tham
mưu của Trung Quốc sử dụng đến từ những năm 90 của thế kỷ trước. Tuy nhiên,
việc sử dụng chính thức thuật ngữ này lần đầu tiên trongDiễn đàn về Châu Á Bác Ngao (Boao
Forum for Asia) năm 2003 do Phó Hiệu trưởng trường Đảng của Trung Quốc là ông Trịnh
Tất Kiên (Zheng Bijian)
đưa ra. Sau đó, nhân dịp lễ kỷ niệm 110 năm ngày sinh của của Mao Trạch Đông và
tháng 12/2003, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã nhấn mạnh trung thành với con
đường XHCN đặc sắc Trung Quốc là trung thành “con đường phát triển trỗi dậy hòa bình”. Từ đó trở đi, thuật ngữ
này được Thủ tưởng Trung Quốc Ôn Gia Bảo nhiều lần nhắc lại trong các Hội nghị
ASEAN và các chuyến thăm Mỹ. Ông Ôn Gia Bảo đã cố biện hộ cho sự trỗi dậy của
Trung Quốc và trấn an thế giới khi ông cho rằng, “con đường phát triển của Trung Quốc đã trải qua khác với các cường quốc
lớn khác đã trải qua, và con đường phát triển của Trung Quốc là con đường trỗi
dậy hòa bình”.[1] Sau
đó, thuật ngữ “trỗi dậy hòa bình”
được đổi thành “phát triển hòa bình”
(Peaceful Development) khi nước này cho xuất bản sách
trắng có tiêu đề “Sự phát triển hòa bình của Trung Quốc”
vào năm 2006. Trong các bài phát biểu trong nước của mình, các nhà lãnh đạo
Trung Quốc luôn thể hiện quan điểm nước này phấn đấu xây dựng một “xã hội hài hòa” (Harmonious World)
tạo phúc cho người dân. Đồng thời, giới lãnh đạo Trung Quốc luôn cố thuyết phục
và trấn an thế giới rằng, nước này không đi theo con đường “nước mạnh tất sẽ bá quyền”, hay “lẽ phải thuộc về kẻ mạnh” (might is
right, and power
is truth). Hơn nữa, thuật ngữ “giấu
mình chời thời” (Hide your strength, Bide your time) mà ông Đặng Tiểu
Bình đưa ra ngày càng xuất hiện ít trong giới lãnh đạo Trung Quốc, thậm chí
trong giai đoạn hiện nay hầu như không được nhắc tới.
Trước đây, Trung Quốc còn tương
đối yếu về kinh tế và quốc phòng, hiện nay trước sự suy yếu tương đối vị thế
của Mỹ và Châu Âu, Trung Quốc một mặt đưa ra những lời lẽ ngoại giao nhằm “ru ngủ” cộng đồng tế, nhất là những
quốc gia quan hệ “đồng minh”
với Bắc Kinh, và Trung Quốc thực hiện chính sách “ngoại giao kinh tế” hay “ngoại
giao tiền bạc”; và Trung Quốc nỗ lực gia tăng phát triển mô hình “Đồng thuận Bắc Kinh”, hay “Mô hình Trung Quốc” (Beijing
Consensus) lôi kéo nhiều quốc gia về phía mình chẳng hạn như ở khu vực Trung
Quốc gia sức phổ biến mô hình “đồng
thuận Bắc Kinh” đối với các nước như Campuchia, Lào, trước đây là
Myanamr, v.v. Nhằm cạnh tranh với “Đồng
thuận Washington” (Washington
Consensus). Đặc biệt trong bối cảnh thế giới bị tác động bởi khủng
hoảng kinh tế, nhất là Mỹ và phương Tây vốn được coi là trung tâm kinh tế của
toàn cầu thế kỷ XIX và XX thì nay đang phải vật lộn với những thách thức kinh
tế và xã hội, trong khi đó bất chấp cơn bão khủng hoảng tài chính quét qua,
kinh tế Trung Quốc vẫn trụ vững và vẫn tiếp tục tăng trưởng ở con số cao, và là
niềm mơ ước của nhiều quốc gia. Bên cạnh đó, trong bài phát biểu kỷ niệm 50 năm
kỷ niệm thành lậpHiệp hội Hữu nghị Đối
ngoại nhân dân Trung Quốc (CPAFFC),
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cho rằng, “nhân dân Trung Quốc sẽ không tiếp nhận logic ‘nước mạnh tất sẽ bá
quyền, muốn chung sống hòa bình, phát triển hài hòa, cùng tìm kiếm hòa bình,
cùng bảo vệ hòa bình, cùng hưởng hòa bình”.[2] Và,
“Trung Quốc sẽ kiên trì đi theo con
đường phát triển hòa bình, đồng thời cũng sẽ thúc đẩy các nước cùng kiên trì
phát triển hòa bình. […] Trung Quốc sẽ tiếp tục thông qua bình đẳng hiệp thương
xử lý các mâu thuẫn và tranh chấp; kiên trì đối thoại giải quyết bất đồng với
thành ý và sự nhẫn nại lớn nhất”.[3]
Tuy nhiên, trong cùng một ngày,
Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Trung Quốc Thượng tướng Phong Phong Huy trong bài
phát biểu tại Washington DC ngày 15/5/2014, liên quan đến vấn đề Biển Đông và
Biển Hoa Đông ông ta lại nhấn mạnh rằng, “chúng tôi không gây chuyện, nhưng chúng tôi không sợ bị gây chuyện,
chúng tôi kiên quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ”.[4] Và,
“đất đai của tổ tiên để lại một tấc
cũng không bỏ”.[5] Theo
như Michael Forsythe đã đánh giá trên tờ New York Times bài viết nhan đề “một ngày, một Trung Quốc, thấy hai chính
sách ngoại giao” (One Day, One China, 2 Foreign Policy Views) rằng, đây
là một cam kết rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục hoạt động thăm dò dầu mỏ ở Biển
Đông, bất chấp sự phản đối mạnh mẽ ở Việt Nam. Quan điểm ngoại giao của Phòng
Phong Huy khác hẳn với Tập Cận Bình.[6] Biểu
hiện bề ngoài, ông Tập Cận Bình phát biểu trong một cuộc họp kỷ niệm “hữu nghị với nước ngoài”, dĩ nhiên
ông sẽ nhấn mạnh đến ý muốn hòa bình của Trung Quốc. Trong khi đó, tướng Phòng
Phong Huy, với tư cách là một nhà đãnh đạo quân sự của Trung Quốc đang đứng ở
nước ngoài, có trách nhiệm bảo vệ các chính sách của Trung Quốc trong khi đối
mặt trực tiếp với các câu hỏi từ phóng viên. Những bối cảnh khác nhau đó rõ
ràng đã tạo ra những sự nhấn mạnh khác nhau về chính sách.
Sẽ là sai lầm khi kết luận đó
là hai chính sách ngoại giao khác nhau. Trên thực tế, tuyên bố của Chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng Tham mưu trưởng Quân đội giải phóng Nhân dân
Trung Hoa Phòng Phong Huy chỉ là hai mặt của cùng một đồng tiền: Sự
trỗi dậy của Trung Quốc là hòa bình, nhưng Trung Quốc sẽ không ngần ngại sử
dụng bất kỳ phương thức cần thiết nào để bảo vệ chính mình.[7] Trong
các tuyên bố chính thức của Trung Quốc, chúng ta dễ dàng nhận ra mâu thuẫn giữa
tuyên bố về “trỗi dậy hòa bình”
hay “phát triển hòa bình” với
các hành động manh tính khiêu khích của Trung Quốc ở cả Biển Hoa Đông và Biển
Đông. Tất cả các tranh chấp ở cả vùng biển phía Đông và phía Nam được Trung
Quốc miêu tả bằng ống kính là: tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc là không
thể phủ nhận và tuyệt đối, và các nước khác là nguyên nhân tạo ra rắc rối bằng
việc cố xâm phạm vào lãnh thổ của Trung Quốc.[8]
Những động thái ngày càng tỏ ra
cứng rắn của Trung Quốc trong mấy năm gần đây cũng phản ánh sự thay đổi trong
chiến lược ngoại giao của nước này, hay nói theo một cách khác, bản chất chiến
lược đối ngoại của Trung Quốc giống như đồng tiền có hai mặt, một mặt được giới
chính trị và ngoại giao nước này miêu tả bằng cụm từ “phát triển hòa bình”, và
mặt kia được giới quân sự và được thể hiện trên thực tế bằng cụm từ cứng rắn là
“quyết bảo vệ chủ quyền bằng mọi cách”. Trung Quốc đã bắn hàng loạt súng đi
tất cả các hướng, khẳng định chủ quyền và quyền lực đối với Biển Đông, Biển Hoa
Đông, Hoảng Hải, và xa tận châu Nam Cực. Theo như đánh giá của Ngụy Văn Lương,
người đứng đầu chương trình Châu Nam Cực của Trung Quốc cho rằng, với sự gia
tăng của nghiên cứu khoa học và năng lực hàng hải của Trung Quốc, thì đây là
lúc chuẩn bị để “gánh trách nhiệm”
về việc quản lý khu vực này.[9] Để
hiểu hơn với sự biểu hiện vẻ “hiếu chiến” được bọc ngoài bởi màn che “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc
trong mấy năm gần đây, chúng ta có thể xem xét từ những khía cạnh sau:
Thứ nhất, sự
“hưng thịnh” hay nói cách khác là trỗi dậy của Trung Quốc song hành với nó là
sự “bành trướng” dường như là một quy luật vận động của lịch sử phát triển của
Trung Hoa trải qua các triều đại đến nay và cho cả tương lai. Rõ ràng, sự phát
triển về mặt kinh tế và sự lớn mạnh về mặt quốc phòng của nước này khiến Trung
Quốc muốn thay đổi quan điểm ngoại giao, nhất việc ông Tập Cận Bình thực hiện
“giấc mộng Trung Hoa” được hiện thực hóa bằng đại chiến lược “con đường tơ lụa
mới thế kỷ 21”, nhằm phục vụ cho mục tiêu khống chế Châu Á, và thúc đẩy Trung
Hoa trở thành cường quốc toàn cầu. Chỉ
trong vòng hơn 30 năm cải cách mở cửa, kinh tế Trung Quốc đã đạt được những
thành tựu đáng kinh ngạc. Trung
Quốc là nến kinh tế lớn thứ hai thế giới (sau Mỹ) với GDP hơn 10.000 tỷ USD của
nước này chỉ xếp sau GDP trị giá 17.000 tỷ USD của Mỹ. Trung Quốc cũng là nước
xuất khẩu lớn nhất, thay thế Đức trong vai trò này vài năm trước. Trung Quốc
đứng đầu ở Châu Á – TBD (và cả trên thế giới) về dự trữ ngoại hối với gần 3.800
tỷ USD vào năm 2013. Trung Quốc cũng là nhà nhập khẩu tài nguyên lớn nhất ở
Châu Á – TBD thế chỗ cho Nhật Bản trong thời gian gần đây. Nước này đã nhập
khẩu hơn 300 triệu tấn dầu mỏ trong năm 2013 mà phần lớn bắt nguồn từ Tây Á và
Châu Phi và đi qua eo biển Malacca. Điều này cho thấy sự phụ thuộc ngày càng
tăng của Trung Quốc vào các vùng biển này để kích thích tốc độ tăng trưởng kinh
tế đang phát triển mạnh mẽ của nước này. Phản ứng của Trung Quốc trong lĩnh vực
này cũng có thể định đoạt bối cảnh an ninh Châu Á – TBD trong tương lai. Những
điểm trên cho thấy rằng Trung Quốc rõ ràng là một trong những tiếng nói quyết
định ở Châu Á – TBD.[10] Rõ
ràng là Trung Quốc đang thấy mình dẫn trở thành trung tâm của kinh tế thế giới,
thậm chí theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì Trung
Quốc sẽ đuổi kịp Mỹ vào năm 2019, thậm chí có giả thuyết đưa ra là vào năm 2018.[11]
Bên cạnh đó, sự trỗi dậy mạnh
mẽ về mặt quốc phòng trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ngày càng gia
tăng càng khiến cho các nước, nhất là các nước láng giềng cảm thấy lo ngại.
Ngân sách quốc phòng không ngừng gia tăng qua các năm. Hiện nay, Trung Quốc cũng chỉ xếp sau Mỹ về phân
bổ ngân sách quốc phòng, và năm 2014, Trung Quốc đã tuyên bố rằng nước này sẽ
chi một khoản theo ước tính chính thức trị giá 132 tỷ USD. Trung Quốc có lực
lượng vũ trang thường trực lớn nhất Châu Á – TBD với các hệ thống vũ khí hạt
nhân chiến lược và tên lửa đạn đạo được tính có thể nhắm tới bất kỳ quốc gia
Châu Á – TBD nào.
Thứ hai, Mỹ
thực hiện chiến lược “xoay trục” sang Châu Á đang đe dọa môi trường an ninh
xung quanh của Trung Quốc, và ủng hộ các quốc gia có tranh chấp chủ quyền với
Trung Quốc cạnh tranh nhau “không gian sinh tồn” ở khu vực, khiến cho Trung
Quốc tỏ ra cứng rắn hơn.Đây là một sự phản ứng mang tính “tự nhiên” bởi bản
thân người Trung Quốc cho rằng mình đã mạnh lên và cần phải giành lấy những gì
thuộc về một cường quốc như Trung Quốc. Theo
như John J. Mearsheimer dự đoán từ 10 năm về trước (2004), Trung Quốc sẽ không
trỗi dậy hòa bình, và câu trả lời rất rõ ràng là nếu Trung Quốc tiếp tục tăng
trưởng kinh tế thần kỳ trong mấy thập niên tới, Mỹ và Trung Quốc có khả năng sẽ
cạnh tranh an ninh mạnh mẽ ẩn chứa đầy nguy cơ chiến tranh. Hầu như các quốc
gia láng giềng của của Trung Quốc, bao gồm Ấn Độ, Nhật Bản, Singapore, Hàn
Quốc, Nga, và Việt Nam sẽ tham gia với Mỹ trong việc kiềm chế sức mạnh của
Trung Quốc.[12] Và
theo lý thuyết về chính trị quốc tế của John J. Mearsheimer thì những quốc gia
lớn mạnh nhất bao giờ cũng có ý đồ thiết lập sự bá quyền trong khu vực của họ
trên thế giới mà không muốn đối thủ lớn khác cạnh tranh. Do vậy, Trung Quốc
dường như muốn kiểm soát Châu Á giống như cách mà Mỹ kiểm soát Tây Âu. Đặc biệt
là, Trung Quốc sẽ tìm cách làm gia tăng khoảng cách lớn nhất giữa Trung Quốc và
các nước láng giềng, nhất là với Nhật Bản và Nga. Trung Quốc muốn đảm bảo rằng
họ là cường quốc mà không quốc gia nào ở Châu Á có thể đe dọa được họ.[13] Đương
nhiên, Mỹ sẽ không chấp nhận một đối thủ cạnh tranh đồng đẳng, bởi từ trong
lịch sử đã chứng minh, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ thường phải tìm
cách ứng phó như thế nào nếu như Trung Quốc có ý đồ khống chế Châu Á.
Giới lãnh đạo Mỹ cảm thấy thực
sự lo lắng trước nguy cơ từ phía Trung Quốc khiến cho Washington thúc đẩy chiến
lược “xoay trục” hay “tái cân bằng” nhằm gia tăng kiềm chế
Trung Quốc, nhưng xem ra Trung Quốc có vẻ như “nắm gân” thành công Mỹ và tiếp tục có những thái độ hiếu chiến
và ẩn ý bá quyền qua một loạt các hành động có tính khiêu khích cao. Trong bối
cảnh đó, Washington tiếp tục cho thế giới thấy được tiếng lách cách của vũ khí
ở khu vực Châu Á nhưng nước này dĩ nhiên rất quyết tâm không để bị lôi vào một
hành động khiêu khích có thể buộc Mỹ phải tiến hành chiến tranh chống Trung
Quốc. Về phía Trung Quốc, nước này một phần vì lý do uy tín trong nước, bày tỏ
ý muốn bá quyền của mình ở các vùng biển Hoa Đông và Biển Đông một cách rất
hung hãn và quá trớn, tính toán rằng đến lúc này mình đã có ảnh hưởng ở trong
vùng và về lâu dài sẽ không phải gánh chịu hậu quả từ những khinh suất của mình
trong vấn đề lãnh thổ.[14]
Và, giàn khoan HD - 981 trị giá
1 tỷ USD của nước này cắm ở Biển Đông trong vùng Đặc quyền kinh tế (EEZ) 200
hải lý của Việt Nam được coi là đã khoan một lỗ hổng lớn trong “chiến lược xoay
trục” của Washington, trong chừng mực nó phá hoại uy tín của Washington với tư
cách là chiếc neo an ninh hoăc người đảm bảo an ninh khu vực. Về bản chất, điều
này nhằm nhạo báng đối với sự đảm bảo an ninh của ông Obama đối với các quốc
gia trong khu vực nhằm đối phó với chiến lược cưỡng ép của Trung Quốc nhằm thay
đổi hiện trạng. Bắc Kinh tính toán rằng, nước Mỹ hùng mạnh cũng như các quốc
gia láng giềng nhỏ yếu của Trung Quốc sẽ không đáp trả bằng vũ lực để chống lại
những nỗ lực gia tăng đối với việc biến Biển Đông thành “cái ao của Trung Quốc”.[15]
Tuy nhiên, những tranh chấp chủ
quyền lãnh thổ giữa Trung Quốc với các quốc láng giềng, trong đó có vấn đề Biển
Đông, và “hội chứng quốc gia trung tâm”
(Middle Kingdom syndrome) khiến cho Bắc Kinh bất lợi và để lại lợi thế cho Mỹ.
Thứ ba, mặc
dù ngay từ khi giới lãnh đạo Trung Quốc đưa ra thuật ngữ “trỗi dậy hòa bình”
thì cũng không ai coi đó là một sự trỗi dậy trong hòa bình mà không đe dọa đến
nước khác theo đúng nghĩa đen của cụm từ này. Giới chuyên gia và các nhà chính
trị thế giới đều hiểu rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc tất sẽ kèm theo đó là sự
“bành trướng” về mặt “không gian sinh tồn”. Nhưng, tại sao trong những năm gần
đây Trung Quốc ngày càng tỏ ra hung hăng hơn trong các tranh chấp chủ quyền
lãnh thổ liên quan đến Biển Đông và Biển Hoa Đông? đó việc Trung Quốc cho rằng
đây là thời cơ để nước này giành giật được ưu thế trong tranh chấp chủ quyền
lãnh thổ nhưng sẽ không gặp phải sự “trừng phạt” nào. Trung Quốc cũng hiểu rằng mình
yếu về lý lẽ pháp lý trong các vấn đề tranh chấp biển đảo. Tuy nhiên có sự bào
chữa yếu nhưng hợp lý còn tốt hơn không có sự bào chữa nào, đặc biệt là quan
điểm đó được chống lưng bởi các thế lực mạnh trong nước và sẵn sàng sử dụng
quan điểm này. Đồng thời, Trung Quốc cũng thừa hiểu sự mâu thuẫn giữa “đường
chín khúc” của nước này với Công ước quốc tế về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982,
nên họ đầu tư khá nhiều vào việc nghiên cứu về chứng cứ pháp lý nhằm minh chứng
cho “quyền vùng nước lịch sử”.[16] Cho
nên, nếu tiếp tục để cho các nước xung quanh sử dụng biện pháp pháp lý giải
quyết các tranh chấp thì không hề có lợi cho Trung Quốc. Bởi vậy, Bắc Kinh gia
tăng các hành động thực tế nhằm thay đổi hiện trạng nhằm kiểm soát các vùng
biển trước khi có bất kỳ một phán quyền của tòa án quốc tế nào.
Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng đã
quan sát rất kỹ đối với các sự kiện như ở Syria, và Ukraine và Bắc Kinh nhận
thấy rằng, chính quyền ông Obama dường như không muốn Mỹ dính líu vào các cuộc
xung đột quân sự. Và, theo như Bắc Kinh thì Mỹ sẽ càng không muốn can thiệp
quân sự ở khu vực Đông Á nếu có xung đột xảy ra. Theo đánh giá của Hugh White, tác giả
cuốn sách mới mang tựa đề Sự lựa chọn của Trung Quốc: Tại sao Mỹ nên
chia sẻ quyền lực?(The China Choice: Why America Should Share Power) cho
rằng, sự lưỡng lự trong chính sách của Mỹ ở Ukraine như một sự ám chỉ cho
Trung Quốc khuếch đại những nỗ lực của họ ở Biển Đông.[17] Điều này càng khiến cho
giới lãnh đạo Trung Quốc “tự tin”
hơn trong các hành động cứng rắn với các nước láng giềng có tranh chấp chủ
quyền lãnh thổ với mình. Mặt khác, Bắc Kinh cũng nhận thấy rằng, tương quan lực
lượng giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng tương đối lớn, trong khi đó ở
khu vực chưa có cơ chế kiểm soát an ninh nào đáng kể.
Lý giải về các hành động đơn
phương gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông, đặc biệt là vụ giàn khoan Hải Dương
– 981, học giả Yun Sun, thuộc Trung tâm Stimson giải thích thì, hành
động nhằm cải thiện vị thế của Trung Quốc trong cuộc chơi và trong các cuộc đàm
phán tương lai. Trung Quốc thích sử dụng lợi dụng lực lượng dân sự và bán quân
sự để tiếp cận [các vùng biển –TG] nhưng cũng không từ chối sử dụng quân sự để
cưỡng chế nếu cần thiết.[18] Bên
cạnh đó, Bộ trưởng Quốc phòng
Trung Quốc, ông Thường Vạn Toàn nói với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel
trong tháng 4/2014 rằng, liên quan đến vấn đề mà Trung Quốc gọi là “chủ quyền lãnh thổ” thì Bắc Kinh sẽ “không thỏa hiệp, không nhượng bộ, không
thương lượng”. Ông cho
biết thêm, “quân đội Trung Quốc có thể
tập hợp ngay sau khi có lệnh, chống lại bất kỳ cuộc chiến tranh nào và giành
chiến thắng”.[19] Trung
Quốc thật sự kinh ngạc trước thách thức và xấc xược của các nước láng giềng nhỏ
và yếu hơn.[20] Điều
này càng kích “phái diều hâu” trong giới lãnh đạo Trung Quốc có những hành động
hiếu chiến hơn với láng giềng hiện nay.
Tóm
lại, cụm từ “trỗi dậy hòa bình” với nội hàm dường như không giống với tên gọi
của nó, và sự trỗi dậy ngày càng mạnh mẽ của Trung Quốc không phải là một tín
hiệu vui mà trong đó ẩn chứa nhiều rủi ro đối với chính trị an ninh khu vực.
Mối đe dọa về nguy cơ xung đột vũ trang từ Trung Quốc luôn thường trực, chẳng
hạn như việc Trung Quốc tuyên bố sẵn sàng dùng vũ lực đối với Đài Loan, và cũng
bao gồm cả với khu vực Biển Hoa Đông và Biển Đông. Các hành động của Trung Quốc gia tăng
khiêu khích ở Biển Hoa Đông và Biển Đông không có gì lạ so với mấy chục năm
“trỗi dậy hòa bình” của quốc gia này, bởi Trung Quốc là quốc gia luôn có sự mâu
thuẫn giữa lời nói và hành động thực tế. Tuy
nhiên, trong cách suy nghĩ của Trung Quốc thì không có sự mâu thuẫn giữa khuynh
hướng hòa bình của Bắc Kinh và một sự phòng vệ mạnh mẽ đối với lãnh thổ của
mình./.
Chủ quyền biển đảo (tổng hợp)
[1] Guo Wanchao (2004), “The Rise of
China: Developmental Path of an Oriental Nation”, Jiangxi People’s Publishing
House, Nanchang.
[2] http://news.xinhuanet.com/politics/2014-05/15/c_1110712488.htm ngày 15/5/2014
[3] http://news.xinhuanet.com/politics/2014-05/15/c_1110712488.htm ngày 15/5/2014
[4] http://mil.news.sina.com.cn/2014-05-16/0916779591.html ngày 16/5/2014
[5] http://mil.news.sina.com.cn/2014-05-16/0916779591.html ngày 16/5/2014
[6] http://sinosphere.blogs.nytimes.com/2014/05/16/one-day-one-china-2-foreign-policy-views/?_php=true&_type=blogs&_r=0 ngày 16/5/2014
[7] http://thediplomat.com/2014/05/chinas-peaceful-rise-and-the-south-china-sea/ ngày 17/5/2014
[8] http://thediplomat.com/2014/05/chinas-peaceful-rise-and-the-south-china-sea/ ngày 17/5/2014
[9] Sushil Seth, “China’s Middle Kingdom
syndrome”,http://www.taipeitimes.com/News/editorials/archives/2010/10/15/2003485394 ngày 15/10/2010
[10] Srikanth Kondapalli, “The
Paradox of China in the Asia-Pacific Theatre”, Griffith Asia
Quarterly, Vol 2, No 1 (2014), https://www104.griffith.edu.au/index.php/gaq/article/view/494/444
[11] http://www.economist.com/blogs/graphicdetail/2014/05/chinese-and-american-gdp-forecasts#sthash.4HcuIy7A.dpbs ngày 2/5/2014
[12] Mearsheimer, John J., 2004. Why China’s
Rise Will Not Be Peaceful. September
2004.http://mearsheimer.uchicago.edu/pdfs/A0034b.pdf 18/6/2014
[13] Mearsheimer, John J., 2004. Why China’s
Rise Will Not Be Peaceful. September
2004.http://mearsheimer.uchicago.edu/pdfs/A0034b.pdf 18/6/2014
[14] TTXVN – Tài liệu tham khảo đặc biệt,
số 144, ngày 9/6/2014, tr.9
[15] http://nationalinterest.org/feature/america-chinas-dangerous-game-geopolitical-poker-10690?page=show ngày 18/6/2014
[16] “China’s New Calculations in the South
China Sea” by Yun Sun, Asia Pacific Bulletin, Number 267, June 10, 2014,
East-West Center.
[17] http://www.defensenews.com/article/20140614/DEFREG03/306140014/Beijing-Continues-S-China-Sea-Expansion ngày 14/6/2014
[18] “China’s New Calculations in the South
China Sea” by Yun Sun, Asia Pacific Bulletin, Number 267, June 10, 2014, East-West
Center.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét