Trung Quốc luôn thực hiện chính
sách hai mặt đối với ASEAN trong chính sách Biển Đông, một mặt muốn phát triển
quan hệ với ASEAN, mặt khác lại không muốn ASEAN lớn mạnh và có vai trò lớn trong
các vấn đề an ninh khu vực.
Trung Quốc tiến hành chia rẽ, phân hóa các
nước ASEAN nhằm phân tán sức mạnh đoàn kết của ASEAN. Một khi ASEAN bị chia rẽ,
không coi Biển Đông là vấn đề chung của hiệp hội mà chỉ là vấn đề giữa Trung
Quốc với một nước ASEAN thì Trung Quốc có thể dễ đạt được các thỏa hiệp có lợi
nhất về vấn đề Biển Đông. Nhằm mục tiêu ấy, Trung Quốc đã lợi dụng sự bất đồng
về lợi ích, về quan điểm giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông của
các nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền để gây chia rẽ, không để các nước này đoàn
kết thành một khối đối trọng với Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Quốc sử dụng
con bài viện trợ để các nước này vì lợi ích quốc gia trước mắt mà không ủng hộ
các nước ASEAN khác trong “hồ sơ Biển Đông”; chủ trương đàm phán riêng rẽ đối
với các nước có liên quan trực tiếp đến tranh chấp ở Biển Đông để đạt lợi ích
riêng.
Trung Quốc tăng cường ảnh hưởng đối với các
nước ASEAN khác nhằm tách họ khỏi các vấn đề Biển Đông, tập trung vào bao vây,
cô lập Việt Nam với các nước ASEAN, vì Trung Quốc cho rằng, Việt Nam là lực cản
lớn nhất đối với chiến lược độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.
Bản đồ mới Trung Quốc có "đường 10
đoạn" nuốt trọn biển Đông.
|
Trung Quốc chủ trương chủ yếu đàm phán song
phương với từng nước ASEAN, không đàm phán chung với cả hiệp hội về vấn đề Biển
Đông. Chủ trương của Trung Quốc là thể hiện chủ quyền ở Biển Đông thuộc về Trung
Quốc và làm giảm vai trò, sức mạnh tập thể của ASEAN trong các vấn đề an ninh
khu vực, qua đó làm tăng vai trò nước lớn của Trung Quốc.
Cùng với việc phản đối đàm phán về vấn đề Biển
Đông với ASEAN, Trung Quốc đồng thời vô hiệu hóa các nội dung về Tuyên bố về
ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) mà hai bên đã ký kết năm 2002. Trung Quốc
luôn nói tuân thủ DOC nhưng thực tế, Trung Quốc trắng trợn hạ đặt trái phép
giàn khoan Hải Dương 981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của Việt Nam từ ngày 1-5-2014, đưa các tàu, kể cả tàu chiến và máy bay quân sự
chủ động đâm va, dùng vũ lực đối với các lực lượng dân sự thi hành pháp luật
của Việt Nam, đâm chìm tàu cá của ngư dân ta, đe dọa an toàn hàng hải, hàng
không trên Biển Đông, bất chấp phản đối của Việt Nam và nhiều quốc gia, tổ chức
quốc tế.
Trung Quốc tìm lý do trì hoãn bàn với ASEAN về
Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Trong khi chưa hoàn tất COC,
Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng DOC!
Trung Quốc cũng lôi kéo ASEAN ngăn chặn ảnh
hưởng của Mỹ ở khu vực. Trung Quốc luôn coi Đông Nam Á là “khu vực ảnh hưởng
truyền thống” của mình. Trước việc Mỹ thực hiện chính sách “tái cân bằng” ở khu
vực, lấy Biển Đông làm khâu đột phá để làm suy yếu ảnh hưởng của Trung Quốc,
nước này đã tìm cách phản công lại bằng cách quy kết lập trường của Mỹ về Biển
Đông chỉ mang lại lợi ích cho Mỹ, không có lợi cho ASEAN.
Trung Quốc ban hành các quy định về vùng đặc
quyền kinh tế, cấm các nước khác khảo sát, đo đạc trong vùng đặc quyền kinh tế
của Trung Quốc; phản đối hoạt động của các tàu do thám Mỹ, muốn đẩy Hải quân Mỹ
ra khỏi Biển Đông nhằm phá thế bao vây về quân sự của Mỹ. Đồng thời, Trung Quốc
có ý đồ dùng quân sự để khống chế các đường hàng hải quốc tế ở Biển Đông, nhằm
ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực và hạn chế khả năng Mỹ can thiệp vào vấn
đề Đài Loan khi có tình huống xảy ra.
Trung Quốc đang thực hiện ý đồ kiểm soát Biển
Đông bằng “sức mạnh mềm”, đồng thời độc đoán, liều lĩnh hơn trong khẳng định
yêu sách chủ quyền. Trung Quốc tăng cường đầu tư cho quân sự, quyết tâm thực
hiện ba nhiệm vụ quan trọng là: Mạnh về hải quân để trở thành cường quốc biển;
chạy đua trên vũ trụ; giành ưu thế về công nghệ thông tin, chiến tranh mạng.
Kể từ năm 1988 đến nay, Trung Quốc đã tăng ngân
sách quốc phòng lên 13 lần, do đó, quân đội Trung Quốc đã có hải quân vào loại
mạnh nhất châu Á. Hải quân và kiểm ngư Trung Quốc tăng cường hoạt động ở khu
vực “đường lưỡi bò” để gây sức ép với các nước ASEAN, tạo sự lo ngại va chạm
của các nước có liên quan để các nước này không dám phản đối Trung Quốc. Nước
này đã sử dụng các tàu thăm dò, tàu đánh cá hoạt động ở những vùng tranh chấp
và tiến hành các biện pháp nhằm dân sự hóa sự hiện diện của Trung Quốc.
Song song với việc áp đặt chủ quyền tại quần
đảo Hoàng Sa, ngang nhiên đưa nhiều tàu đánh cá vào hoạt động ở ngư trường
truyền thống của Việt Nam, Trung Quốc còn phái một đoàn tàu đánh cá đến Trường
Sa. Khi dựa trên một đoàn tàu “dân sự” ngày càng mạnh của Cục Quản lý Đại dương
hay của Cơ quan Ngư chính, mà tàu, thuyền được trang bị vũ khí hạng nặng, Trung
Quốc đang dùng chính sách “sự đã rồi” để áp đặt chủ quyền của họ.
Trung Quốc cũng phản đối “quốc tế hóa” vấn đề
Biển Đông, tránh đưa tranh chấp ra các cơ chế phán quyết quốc tế. Trung Quốc
luôn yêu cầu đàm phán song phương với từng nước tranh chấp chủ quyền ở Trường
Sa, luôn khước từ một bên thứ ba can thiệp vào những tranh chấp trên Biển Đông
vì muốn dùng áp lực nước lớn “nói chuyện” với các nước nhỏ; phản đối
Phi-líp-pin, Việt Nam đưa vấn đề tranh chấp ra Tòa Trọng tài Thường trực Quốc
tế (PCA). Trung Quốc né tránh sử dụng luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS
1982, điều này chứng tỏ Trung Quốc yếu thế về cơ sở pháp lý trong các yêu sách
chủ quyền phi lý của họ trên Biển Đông.
Gần đây, Trung Quốc chủ động yêu cầu Tổng Thư
ký Liên hợp quốc (LHQ) cho lưu hành bức thư vu khống Việt Nam đến tất cả 193
quốc gia thành viên của tổ chức quốc tế này. Khỏi phải nói, Trung Quốc “đổi
trắng thay đen” thế nào. Thử hỏi, nếu đã gửi công hàm “phản đối” Việt Nam lên LHQ
thì liệu Trung Quốc có chấp thuận để cho tổ chức này phân xử những tranh chấp
không? Chắc chắn là không. Sự chỉ trích của cộng đồng quốc tế với hành động của
Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ và việc Trung Quốc gửi “thư phản đối” lên Tổng Thư
ký LHQ không chỉ là để bác bỏ công hàm trước đó của Việt Nam gửi Tổng Thư ký
LHQ, mà chính là một nỗ lực làm giảm bớt sức cộng hưởng của vấn đề này trong dư
luận thế giới. Phải chăng, Trung Quốc gửi thư này là muốn LHQ sẽ “hợp thức hóa”
việc họ hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển của Việt Nam? Kháng thư gửi
LHQ còn có thể được hiểu rằng, Trung Quốc sẽ có những bước leo thang mới trên
Biển Đông và tìm cách xoa dịu trước những tác động tiêu cực tiềm năng do hành
động của họ gây nên.
Chủ quyền biển đảo (tổng hợp)
Theo: QĐND
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét